1. Đan Mạch là nơi có số heo con cai sữa nhiều nhất thế giới.
Trong dự án trình diễn trại heo tại Đan Mạch thì tỷ lệ heo đẻ đạt trên 90%. Số lứa đẻ đạt 2,4 lứa/năm, số con cai sữa đạt 40 con/năm và trung bình một bầy cai sữa khoảng 16 – 18 con. Năng suất này đạt được trong một khoảng thời gian ngắn. Vậy có thể đạt được năng suất 16 – 18 con cai sữa/ bầy trong nhiều năm?
Vậy có thể đạt được năng suất 16 – 18 con cai sữa/ bầy trong nhiều năm?
Đan Mạch được biết đến là quốc gia có hệ thống sinh sản tiên tiến và hệ thống giống di truyền tốt, là quốc gia có năng suất cai sữa cao nhất thế giới. Hệ thống giống của Đan Mạch tập trung phát triển nái có năng suất sinh sản cao. Đồng thời, FCR của những nái này đạt mức tốt, lượng cám cần thiết để sản xuất heo con cai sữa ở mức rất thấp.
Hệ thống sản xuất của Đan Mạch có những điểm chính sau:
- Về mặt năng lực quản lý, các cá nhân luôn được tin tưởng.
- Người quản lý trại đẻ có kỹ thuật quản lý cao.
- Luôn mở rộng phát triển bầy hậu bị có chất lượng thỏa mãn với nhu cầu.
- Tỷ lệ đẻ trên 90%.
- Duy trì điểm thể trạng (BCS) nái phù hợp.
- Nái yếu trước khi bị đào thải đều được điều trị theo chính sách bảo vệ động vật.
- Mục tiêu là không chuyển đến lò giết mổ những nái không đạt tiêu chuẩn quá 5%.
2. Nhân viên tại các trại sinh sản.
Nhân viên tại các trại sinh sản đến từ các quốc gia khác nhau. Chính vì vậy, kinh nghiệm, năng lực, kỹ năng và kỹ thuật từng người có sự khác biệt. Trong số các nhân viên đó thì có một người sẽ chịu trách nhiệm quản lý về điện, nhập cám, cấp nước, cho ăn, hệ thống thông thoáng khí và quản lý nái hậu bị mang thai. Ngoài ra, các việc còn lại sẽ do các nhân viên khác đảm nhiệm và xử lý.
Cần hình thành mối quan hệ đồng nghiệp tốt tại nơi làm việc. Chính vì vậy, phải tạo ra môi trường lao động tốt. Ngoài ra, vấn đề cần trao đổi trong công việc là rất quan trọng, nên nhân viên nước ngoài phải học tốt tiếng Đan Mạch. Chi phí học tiếng Đan Mạch rất đắt nên phương pháp tốt nhất để học ngoại ngữ mới này là thường xuyên sử dụng chính ngôn ngữ đó.
Các nhân viên phải cần có một mục tiêu chung. Ví dụ như trại đẻ phải sản xuất được nhiều heo con lớn và khỏe mạnh, dẫn đến việc trại đẻ phải hy sinh BCS của nái, nhưng dùng nhiều nái để ghép bầy sẽ khiến nhân viên quản lý phối phải giải quyết nhiều vấn để phát sinh. Nhân viên trại phối, vì luật bảo vệ động cấm nuôi nái trong chuồng ép, nên phải nuôi ở chuồng tập trung.
Việc phải nuôi nái ở chuồng tập trung dẫn đến việc quản lý theo từng cá thể rất khó khăn. Có những nông trại năng suất trại đẻ cao nhưng nhìn tổng thể thì gây hiệu quả ngược. Nhân viên tại trại mang thai phải chuyển sang trại đẻ những nái có thể trạng khỏe mạnh. Việc chích vắc xin cũng gây ảnh hưởng tới một vài bộ phận sản xuất.
Mọi nhân viên phải nắm rõ chu kỳ sinh sản của nái nhằm phát huy tốt nhất năng lực của heo. Đặc biệt, cần có những chuyên gia nắm rõ kỹ thuật ở bộ phận mà mình đang phụ trách. Thời gian làm việc ở Đan Mạch là 37 giờ/tuần, một năm có từ 5 – 6 tuần nghỉ phép.
Phải ghi chép chi tiết công việc thường ngày mình phụ trách. Những bộ phận, dù chỉ có một người, cũng phải ghi chép mọi việc. Việc này nhằm ổn định, an toàn hóa việc sản xuất. Khi thay đổi nhân viên quản lý, ta có thể tối thiểu hóa ảnh hưởng của việc xâm nhập dịch bệnh.
3. Nâng cao năng suất trại đẻ.
Trại đẻ là nơi quyết định năng suất trại sinh sản. Quản lý trại sinh sản sao cho không gây ảnh hưởng tới sức khỏe của nái, nâng cao số con/bầy. Theo số liệu điều tra mới nhất đã chứng minh, nếu nái khỏe mạnh có thể nuôi dưỡng đến 15 heo con.
Muốn vậy, nhân viên trại đẻ phải đáp ứng nhiều yêu cầu hơn. Khi số heo con đẻ ra trong bầy tăng, nếu nái mắc bệnh hay số nái cai sữa ít thì tình hình xấu sẽ chuyển biến rất nhanh. Ngoài ra, một điều cơ bản nữa là nếu số con/nái tăng thì trọng lượng cai sữa sẽ giảm. Tuy nhiên, nếu cho heo con ăn cám tập ăn thì sẽ có thể khắc phục được vấn đề này.
4. Heo hậu bị.
Để trại sinh sản hoạt động bình thường, phải duy trì ổn định số lượng heo hậu bị. Ngoài ra, BCS của hậu bị phải được đảm bảo phù hợp để nâng cao năng suất sinh sản. Trại có thể tự sản xuất heo hậu bị hoặc mua từ các trại bên ngoài. Nếu mua từ bên ngoài thì khi đặt hàng cần xác định rõ số con và tháng tuổi cần mua.
Nếu trại tự sản xuất heo hậu bị thì chất lượng có thể không đạt như yêu cầu. Mặt khác, nếu tự sản xuất thì cần mặt bằng và công lao động, ngoài ra cần phải đầu tư thêm chi phí. Đồng thời, việc sản xuất heo lai giữa Landrace và Yorkshire tốn nhiều công sức hơn heo lai giữa Duroc, Landrace và Yorkshire. Tuy nhiên, phương pháp tự sản xuất heo hậu bị lại có ưu điểm là giảm nguy cơ dịch bệnh xâm nhập.
5. Tỷ lệ đẻ.
Theo dự án trình diễn của Đan Mạch thì tỷ lệ heo đẻ đạt trên 90%. Để đạt được tỷ lệ đẻ cao như trên, cần duy trì ổn định tỷ lệ thay nái. Ngoài ra, chi phí cám cũng giảm khoảng 5%.
6. BCS (body condition score).
Việc quản lý thể trạng nái cần có sự hợp lực của các nhân viên trong việc gia giảm cám. Việc này có thể làm giảm số nái đào thải. Việc đánh giá BCS qua mắt là một phương pháp tốt. Chính vì vậy, cần định kỳ tập huấn, điều chỉnh khả năng đánh giá qua mắt.
BCS được đánh giá ở các thời điểm nái đẻ, cai sữa, thời kỳ đầu mang thai và mang thai 79 ngày tuổi. Việc đánh giá là nhằm mục đích xác định nái quá mập hoặc quá ốm, qua đó sẽ điều chỉnh tăng giảm lượng cám cung cấp cho nái.
7. Trạng thái của ruột và bao tử.
Ruột và bao tử của heo, nếu khỏe mạnh chúng mới phát huy được hết chức năng hoạt động của mình. Chính vì vậy, cần cân bằng thành phần dinh dưỡng trong cám. Nếu sự cân bằng bị phá vỡ thì trạng thái của ruột và bao tử sẽ không tốt. Trường hợp xấu, bao tử có thể bị xoắn lại gây đột tử trên heo.
Những dấu hiệu cho thấy ruột và bao tử có vấn đề:
- Da heo trở nên trắng bệt và tăng trọng chậm lại.
- Phân màu đen hoặc đỏ đậm.
- Heo không ăn cám hoặc ói.
- Chất xơ, tinh bột và độ lớn của viên cám cai sữa sẽ ảnh hưởng rất lớn tới trạng thái của ruột và bao tử.
Biên dịch: Heo Team
Theo Pig & Pork
——————————————————————————————————————————————–
Bài 2: Nâng Cao Năng Suất Sinh Sản Heo Nái
Ngày nay thịt heo là nguồn thực phẩm chủ yếu cho con người, trên thế giới thịt heo chiếm 40% thị phần và ở Việt nam thì tỷ lệ này là hơn 75%. Giá thành thịt heo có xu hướng ngày càng giảm và chất lượng thịt heo ngày càng được quan tâm đặc biệt. Các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi heo hiện nay tập trung chủ yếu vào việc tăng tỷ lệ nạc, giảm mỡ; đặc biệt các tiến bộ kỹ thuật (TBKT) trong chăn nuôi heo nái được quan tâm đặc biệt. Các TBKT có thể được phân ra theo các lĩnh vực như nuôi dưỡng , chăm sóc, enzim và hoóc môn.
I. Nuôi dưỡng:
1. Nuôi heo theo đúng trọng lượng chuẩn:
Điểm quan tâm đặc biệt là hàm lượng mỡ trong cơ thể heo nái. Các nghiên cứu cho thấy độ dày mỡ lưng ở vị trí P2 ở heo nái tốt diễn biến ở các lứa đẻ tăng dần đến giai đoạn đậu thai, giai đoạn đẻ, sau giai đoạn đẻ thì giảm dần xuống điểm cai sữa, sau đó lại tăng dần ở lứa tiếp theo đến giai đoạn đẻ. P2 giảm so với khi phối kỳ đầu (lúc sau cai sữa) chỉ còn khoảng 12mm là tốt, P2 từ 20mm giảm 7,4 mm. Nếu P2 nhỏ hơn 12mm sẽ không tốt cho lứa đẻ sau.
2. Cho heo nái ăn hạn chế trong thời kỳ mang thai:
Thời kỳ mang thai heo nái có thể ăn gấp 3 lần năng lượng duy trì, điều này sẽ làm giảm tính ngon miệng của heo nái ở thời kỳ nuôi con. Các nghiên cứu cho thấy nếu giai đoạn này heo ăn lượng thức ăn có năng lượng cao hơn 25MJ thì tính thèm ăn giai đoạn nuôi con bắt đầu giảm. Sở dĩ như vậy là do khi heo mập thì hàm lượng Insulin tăng cao trong huyết tương, chúng tác động lên hệ thần kinh trung ương, trung tâm Hypothanamus làm giảm tính thèm ăn. Khi heo mập thì ở gan xuất hiện nhiều glycerol và axít béo no làm tăng quá trình oxyhóa glycerol và axít béo, chúng tác động qua thần kinh trung ương làm tính thèm ăn giảm. Mặt khác, nếu heo ăn nhiều sẽ làm giảm số heo con/lứa. Do vậy ở thời kỳ này cần:
Nuôi heo đạt theo trọng lượng theo yêu cầu
Đạt tích luỹ mỡ theo yêu cầu chuẩn
Không nên cho ăn một lượng thức ăn như nhau trong suốt giai đoạn. Giai đoạn thai phát triển nhanh nên tăng thêm lượng thức ăn.
3. Heo nái nuôi con:
Giai đoạn này có đặc điểm là dinh dưỡng heo nái không thể đủ nuôi con và tính ngon miệng của heo nái giảm nhiều so với thời kỳ mang thai. Do vậy cần cho heo nái ăn tự do và chất lượng thức ăn tốt nhằm có lượng sữa sản xuất cao và đảm bảo giảm trọng theo tiêu chuẩn.
Yêu cầu dinh dưỡng trong giai đoạn này là 13,5 MJ và khoảng 3200 Calori. Sau 28 ngày nuôi con, trọng lượng heo nái giảm 9-10 kg là tốt, đảm bảo năng suất sinh sản của của heo nái qua các lứa.
Môi trường có ảnh hưởng nhiều đến tính thèm ăn, các nghiên cứu cho thấy nhiệt độ thích hợp là 16 độ C. Nếu tăng 1 độ C thì thức ăn ăn được giảm 140 – 120 gr/ngày. Vì vậy cần giảm nhiệt độ chuồng nuôi heo nái nuôi con bằng quạt gió, trồng cây xanh hay phun mưa trên mái chuồng.
Nếu nuôi heo trong giai đoạn này ốm thì sức sản xuất sữa sẽ giảm, heo con chậm phát triển; số trứng rụng giảm ở các lứa kế tiếp, tỷ lệ phôi sống giảm và thời gian lên giống kéo dài.
Hiện nay người ta ứng dụng trong thực tế:
Trước khi phối giống (2-3 tuần ) thì tăng cao lượng thức ăn (42,8 MJ/ngày) nhằm tăng tỷ lệ rụng trứng và số trứng rụng.
Một tháng đầu sau phối giống thì giảm lượng thức ăn nhằm nâng cao thành tích sinh sản của heo nái.
II. Chăm sóc:
Thành tích sinh sản của heo nái phụ thuộc nhiều vào hội chứng MMA (viêm tử cung, viêm vú và kém sữa). Vì vậy các biện pháp khắc phục hội chứng này sẽ nâng cao thành tích sinh sản của heo nái
1. Loại thải những heo viêm tử cung
Sau khi điều trị, đặc biệt viêm có mủ. Sở dĩ như vậy là do những heo đã bị viêm tử cung sau điều trị sẽ có sữa rất ít và khả năng bám dính và đậu thai thấp, xuất hiện hiện tượng khô thai… Để phòng ngừa viêm tử cung thì có nhiều biện pháp như thụt rửa tử cung sau đẻ bằng Iode hay kháng sinh, đặt kháng sinh… biện pháp tốt là đặt kháng sinh Tetracyline ngày 1 lần và đặt 3 ngày liên tục.
2. Viêm vú gây cho heo nái mất sữa:
Gây tiêu chảy cho heo con. Biện pháp điều trị tốt nhất là chích kháng sinh như Cefalexine, dung dịch chích Norfloxacine.
3. Nuôi heo nái quá mập:
Sự mập ốm của heo phụ thuộc vào điểm P2. Heo nuôi tốt có P2 từ 19-22mm, nếu heo có P2 lớn hơn 23mm là heo mập. Khi heo mập thì ngoài các tác hại đã nêu ở phần trên thì còn có tác hại là gây ra sự đẻ khó, tỷ lệ sót nhau cao do khả năng co thắt tử cung và cơ bụng yếu, mỡ bao quanh buồng trứng, tử cung do vậy đẻ con khó. Các nghiên cứu cho thấy lượng thức ăn cho heo trong thời kỳ mang thai có thể tham khảo như sau:
Thai kỳ 1 (sau phối – 84 ngày): 1,8-2 kg/ngày/con (năng lượng trong khẩu phần là 3.200 kcal/kg thức ăn)
Thai kỳ 2 (85-107 hay 110 ngày): 2,7kg/ngày/con .
Thai kỳ 3 (108 hoặc 111 ngày đến lúc sanh): 1,5 kg/ngày/con. Khẩu phần nên có nhiều chất xơ để tạo độ no
4. Táo bón:
Hiện tượng táo bón thường xảy ra đặc biệt ở cuối thai kỳ do thiếu chất xơ trong khẩu phần. Khi táo bón thì hiện tượng MMA sẽ tăng cao. Hàm lượng xơ trong khẩu phần thức ăn heo nái yêu cầu 8-9%. Để đảm bảo tỷ lệ xơ này, các nghiên cứu đã tập trung nghiên cứu nhiều loại nguyên liệu như trấu, rơm xay nhuyễn, vỏ đậu phộng, cùi bắp, bã mía, bã mì… Loại nguyên liệu dễ tìm, dễ sử dụng, rẻ và không có độc tố aflatoxin là vỏ trấu nghiền.
5. Vitamin:
Khi thiếu vitamin trong khẩu phần thức ăn heo nái sẽ làm cho hội chứng MMA cao, đặc biệt là thiếu vitamin A và E. Vitamin A có tác dụng kích thích quá trình phát triển của hệ thống niêm mạc và giữ chúng chắc chắn, dẻo dai. Khi heo nái đẻ rất dễ bị tổn thương, sây sát niêm mạc, do vậy cung cấp vitamin A giai đoạn này sẽ giúp niêm mạc dẻo dai chống và hồi phục nhanh các tổn thương. Nghiên cứu cho thấy mức 25.000 UI vitamin A/1 kg thức ăn suốt giai đoạn từ heo nái đến nuôi con là tốt nhất. Vitamin E có ảnh hưởng nhiều đến quá trình sinh sản, liều vitamin E là 80 UI/1 kg thưc ăn trên nền vitamin A (25.000 UI) là tốt nhất.
6. Chuồng trại, cấp nước và thông thoáng:
Lượng mỡ trong cơ thể heo cao, do vậy khả năng chụi nóng của heo kém. Các biện pháp chống nóng cho heo cần được áp dụng để giảm hội chứng MMA
Không cung cấp đủ nước uống cho heo sẽ gây ra hiện tượng táo bón ở heo và góp phần làm tăng hội chứng MMA. Vì vậy cần cung cấp đủ nước uống cho heo và đảm bảo nhiệt độ nước uống thích hợp.
Thường xuyên sát trùng chuồng trại để giảm thiểu lượng visinh vật trong chuồng nuôi.
III. Việc sử dụng enzim và hoóc môn
Việc sử dụng enzim trong chăn nuôi giúp tăng khả năng tăng trọng , giảm tiêu tốn thức ăn và chống ô nhiễm môi trường . Dùng enzim khi heo con cai sữa là cần thiết vì heo con bị xa mẹ , có sự giảm mạnh sự tiết enzim; heo con thiếu nguồn thức ăn là sữa mẹ và chưa đủ enzim tiêu hóa thức ăn mới; sự trương nở thức ăn mới chèn ép làm giảm sự tiết enzim và enzim tiêu hóa mới chưa thích hợp với thức ăn mới. Ngoài ra, trong trường hợp stress và bệnh tật cũng cần sử dụng enzim. Nhưng trong thực tế chăn nuôi cho thấy chỉ nên sử dụng enzim khi cần thiết, nếu dùng thường xuyên sẽ tạo sức ì cho cơ thể và sự lệ thuộc vào enzim bổ sung.
Ts. Nguyễn Văn Bắc – TTKNQG
Naipet.com