Kỹ Thuật Chăm Sóc, Nuôi Dưỡng Nái Đẻ Và Heo Con Sơ Sinh

0

1. Dấu hiệu heo nái sắp sanh.

Nái sắp sanh thường biểu hiện ăn ít hay không ăn, có tiếng kêu rền của nái sắp đẻ. Nái thường ủi phá nền chuồng (hiện tượng quầng ổ). Để nái ít hao tốn năng lượng do việc quầng ổ, ta nên rải rơm, cỏ khô hoặc bao bố sạch vào chuồng cho nái nằm.

Nái sắp sinh có thể tăng thân nhiệt, tăng nhịp thở, đi lại không yên trong chuồng, đi phân, đi tiểu nhiều lần (gọi là đi mót) làm cho ô chuồng dơ bẩn. Do đó cần vệ sinh và giữ chuồng luôn khô ráo để tránh nhiễm trùng cho heo con và bộ phận sinh dục heo nái sau khi đẻ.

ky-thuat-cham-soc-nuoi-duong-nai-de-va-heo-con-so-sinh 1

Nái sắp đẻ có bộ vú phát triển rõ rệt,các núm vú dài ra, quầng núm rộng. Heo sắc lông trắng thường có quầng núm vú và núm vú màu đỏ hồng, hai hàng vú tạo thành hai bệ sữa chạy dọc đường giữa bụng, có rãnh phân chia rõ rệt giữa hai hàng vú và các vú.

Khi nặn đầu vú chưa thấy sữa non, chắc chắn nái chưa đẻ trong 4 – 6 giờ sắp tới; nếu sữa non rịn ra đầu vú qua hai lỗ tia sữa, nái sẽ đẻ trong vòng 6 giờ. Khi nặn các đầu vú đều có sữa non vọt thành tia dài, nái sẽ sinh trong vòng 2 giờ sau. Nếu bộ phận sinh dục có nước nhờn màu hồng và những hạt lợn cợn như hạt đu đủ (cứt su do heo con thải ra), nửa giờ sau nái sẽ đẻ. Nếu nái nằm nghiêng một bên, hơi thở đứt quãng, ép bụng, ép đùi, quẩy đuôi rặn đẻ thì chỉ vài mươi giây sau nái sẽ đẻ.

2. Chăm sóc heo nái và heo con sơ sinh.

Nơi nái đẻ phải thoáng mát, yên tĩnh. Nhiệt độ cao, hầm nóng, không thông thoáng làm cho nái thở mệt, lười rặn, đẻ chậm gây ngộp thai. Sự ồn ào, lạ người chăm sóc, sự hiện diện của thú lạ như chó mèo có thể làm nái hoảng sợ hoặc hung dữ, ngưng đẻ hoặc đẻ chậm, số heo con chết lúc đẻ tăng.

Thông thường mỗi 15 – 20 phút nái đẻ 1 con, có khi nái đẻ liên tiếp nhiều con rồi ngưng nghỉ một thời gian. Bình thường, khoảng 3 – 4 giờ nái đẻ hết số con, nhau được tống ra sau cùng. Những nái tống nhau ra hàng loạt sau chót thường ít bị viêm nhiễm đường sinh dục vì lá nhau như là chất “lau rửa” tống khứ chất dịch hậu sản ra khỏi đường sinh dục. Trái lại nái có thai chết trước khi sinh hoặc thai lớn còn nằm trong bọc nhau, thì nái ít rặn, chậm đẻ; những thai này ảnh hưởng xấu đến những thai còn sống bên trong (tăng số heo con ngộp, chết trong lúc sanh: chết tươi).

Cần cảnh giác các trường hợp nái sinh con nhanh bỗng nhiên ngưng đẻ, cường độ rặn yếu để có biện pháp can thiệp kịp thời tống những thai chết trước khi sinh, cứu sống những thai sống trong bụng nái. Cũng có trường hợp sau khi tống hết số nhau (bằng số con đẻ ra), vẫn còn sót thai. Nguyên nhân do thai này to và cũng do nái mệt, ngủ nên không đẻ ra kịp. Hậu quả là thai chết, thai bị sình thối gây viêm nhiễm trùng nặng cho nái; nái sốt cao, bỏ ăn, mất sữa…; heo con chết vì đói.

Không nên can thiệp bằng oxytocin khi chưa đẻ con đầu tiên. Nếu cần thiết, nên thăm khám vùng chậu, không nên thọc tay sâu vào bên trong tử cung vì dễ gây nhiễm trùng tử cung. Nếu thọc tay sâu vào tử cung nhiều lần gây rối loạn nhu động, làm đau nái, nái tạm ngưng đẻ một thời gian.

Nhiều trường hợp nái đẻ mà heo con vẫn còn nằm trong bọc nhau, cần nhanh chóng xé bọc để heo thở, không bị chết ngộp. Sau khi nái đẻ hết con, nhau sẽ tống ra (số lá nhau bằng số con). Nái cho con bú mà đuôi buông thỏng thì xem như không còn sót con, sót nhau. Trái lại, khi cho con bú, nái vẫn còn cong đuôi (đuôi quấn một vòng cong) và quan sát kỹ có thể thấy thỉnh thoảng nái nín thở, ép bụng thì xem như vẫn còn sót con hay sót nhau. Dấu hiệu cong đuôi thường báo hiệu rất chính xác tình trạng sót con, sót nhau. Heo nái đẻ sót con xảy ra nhiều hơn sót nhau so với những thú khác.

Trong khi đẻ, nhiều nái thường đứng dậy, đi uống nước, hoặc đi phân, đi tiểu, trở thế nằm để tiếp tục đẻ. Nguyên nhân có thể do thai phân bố hai bên sừng tử cung. Do vậy khi thấy nái đẻ một số con rồi ngưng nghỉ, ta nên nhẹ nhàng đỡ nái đứng dậy đi một vòng và tác động các vú đối diện để cho nái trở bề nằm (nếu muốn nái nằm bên phải thì xoa nắn bệ vú, hàng vú bên trái và ngược lại).

Trước khi nái đẻ cần vệ sinh sạch sẽ vùng hội âm (quãng giữa âm hộ với hậu môn). Vùng này thường có nhiều nếp gấp, da chết, tích tụ chất bẩn hoặc phân dính, chúng dễ vấy nhiễm vào âm đạo khi can thiệp móc thai. Nên cắt sạch lông đuôi để tránh tình trạng nái quẩy đuôi khi rặn đẻ làm văng và phát tán dịch nhày (sản dịch), hoặc dịch hậu sản, hoặc mủ (khi bị viêm đường sinh dục). Việc cắt lông đuôi cũng có lợi cho chủ nuôi đoán biết khoảng cách giữa hai lứa đẻ của nái (lông đuôi dài ra thì khoảng cách giữa hai lứa đẻ dài và ngược lại). Một số trại, chủ trương cắt đuôi heo nái; như vậy khó phát hiện tình trạng sót con, sót nhau sau khi đẻ.

Chuồng trại hầm nóng, heo nái thở mệt, ít rặn đẻ. Chống nóng cho nái bằng cách lau khăn mát nhiều lần, chườm lạnh vùng đầu, hoặc điều chỉnh bầu tiểu khí hậu nếu có điều kiện, nhờ đó có thể giúp nái đẻ nhanh, ít gây chết thai. Một số nái sắp đẻ thường bị sưng phù âm môn rất nặng và nếu nái rặn đẻ quá mạnh hoặc dùng thuốc kích thích rặn đẻ, có thể gây vỡ âm môn, chảy máu; cần có biện pháp cầm máu kịp thời (dùng kẹp kẹp mạch máu và chỉ cột mạch máu), tránh tử vong cho nái.

Sau khi đẻ, heo sơ sinh được xách dốc ngược đầu cho nước nhờn trong xoang miệng và mũi chảy ra ngoài, không chảy ngược vào khí quản gây nghẽn đường thở. Việc xách dốc ngược cũng giúp máu dồn về não ở những con bị ngộp nhờ đó não không bị liệt. Nên nắm chặt cuống rốn, tránh chảy máu sau khi cuống rốn đứt rời cuống nhau (lá nhau còn nằm trong bộ phận sinh dục nái). Nên quan sát kỹ để phát hiện tình trạng heo con bị ngộp như da tím tái, giãn cơ, heo mềm nhũn không cử động. Gặp trường hợp này phải nhanh chóng dùng khăn sạch lau móc nhớt trong xoang miệng, mở rộng miệng và dùng tay bóp lồng ngực 60 lần/phút để tạo sự thông khí phổi. Có thể tác động như thế trong vòng 15 – 20 phút kết hợp với việc lau, mở rộng miệng mỗi 2 – 3 phút/ lần, heo con có thể hồi phục; nên dành thời gian chăm sóc những con kế tiếp.

Khi thấy heo con bắt đầu loi nhoi cử động, ta tiến hành lau sạch chất nhày toàn thân, cột rốn cách thành bụng 4 cm và cắt rốn cách chỗ cột 1 cm. Chỉ cột rốn và kéo cắt rốn phải được sát trùng cẩn thận. Sau khi cắt rốn phải kiểm tra xem có rỉ máu vì cột rốn không chặt. Nhúng rốn vào dung dịch cồn iốt 5% để sát trùng. Heo sơ sinh được cắt bỏ 8 răng nhằm tránh gây đau vú mẹ khi bú.

Có thể không cột và cắt rốn nếu nhúng rốn bằng bột ủ úm. Bột này cũng được dùng sát trùng âm hộ nái sau đẻ, nhúng toàn thân heo con để giữ ấm (trừ phần đầu).

Nên úm heo con sơ sinh nếu nhiệt độ bên ngoài lạnh nhằm tránh tình trạng heo con tiêu hao nhiều năng lượng để chống lạnh. Nhiệt độ úm khoảng 30 – 330C. Ta nên cho heo con bú ngay khi chúng ủi nhau tìm bú vì heo con bắt đầu đói. Không nên giữ lâu trong ổ úm, chúng có thể bú rốn lẫn nhau gây nhiễm trùng rốn hoặc tuột chỉ cột rốn, gây chảy máu nguy hiểm cho con bú rốn và con bị bú rốn. Khi heo con trong ổ úm tản ra nghĩa là nhiệt độ úm cao, nên hạ nhiệt độ.

Nên làm vệ sinh kỹ các vú. Mỗi vú thường có hai lỗ tia sữa. Các lỗ này thường ứ đọng các chất bẫn hoặc phân. Nơi đây chứa nhiều mầm bệnh, cần cạy bỏ và nặn bỏ vài tia sữa đầu. Lau sạch vú bằng thuốc sát trùng nhẹ trước khi cho heo con bú. Hiện nay có những chế phẩm gamma globulin dùng cho heo con sơ sinh uống để tăng cường miễn dịch chống bệnh.

Cho heo con bú sớm cũng kích thích nái đẻ tiếp những con còn trong bụng. Những kích thích của heo con ở đầu vú sẽ dẫn truyền về não, não thùy tiết ra hormon prolactin (tạo sữa) và oxytocin (giúp thải sữa). Chính oxytocin đến thành tử cung sẽ kích thích co bóp và đẩy bào thai còn lại ra ngoài. Nên lót rơm cỏ sạch, hoặc bao bố cho heo con nằm bú nhằm tránh lạnh bụng và trầy xước cuống rốn, cổ chân trước của heo con sơ sinh.

Có thể sử dụng một số chế phẩm xịt để bảo vệ đầu núm vú hoặc mặc áo cho heo con cái dự kiến chọn làm giống hậu bị sau này.

Nên làm vệ sinh chuồng trại kỹ lưỡng sau khi nái đẻ xong. Cần giữ ấm cho heo con (cho bú xong nên nhốt vào ổ úm) ít nhất trong vòng 3 – 7 ngày. Nên cho bú từng cữ cách nhau mỗi 1 giờ rưỡi đến 2 giờ và tránh tình trạng nái bị mệt đè đạp con. Riêng đối với nái cũng cần giữ cho thoáng mát, tránh nóng, tránh lạnh, tránh gió lùa mưa tạt. Một số nơi đã nhập tấm sưởi giúp giữ ấm cho heo con tốt hơn đèn dây tóc, đèn hồng ngoại.

ky-thuat-cham-soc-nuoi-duong-nai-de-va-heo-con-so-sinhsưởi ấm heo con

Phải cho tất cả heo con bú được sữa đầu (colostrum) vì sữa đầu chỉ sản xuất trong khoảng 24 giờ sau khi nái đẻ và heo con chỉ hấp thụ sữa đầu tốt nhất trong 24 giờ sau khi sinh. Sữa đầu thường đậm đặc hơn sữa thường, chứa nhiều sinh tố A, nhiều protein mà đặc biệt là gamma globulin (kháng thể) của mẹ để truyền cho heo con, giúp heo con kháng bệnh trong thời kỳ bú mẹ, trong khi khả năng sản xuất kháng thể heo con còn yếu, chưa hoàn thiện. Vì vậy trong 24 giờ đầu ngoài việc cho heo con bú được sữa đầu, cần hạn chế tối đa sự nhiễm trùng cho heo con. Đây là giai đoạn tranh đua giữa sự hấp thu kháng thể để bảo vệ heo con chống bệnh và chống nhiễm trùng. Nếu sự hấp thu kháng thể nhanh mà sự xâm nhiễm mầm bệnh chậm thì heo con có sức đề kháng bệnh. Ngược lại sự nhiễm khuẩn diễn ra nhanh hơn sự hấp thu kháng thể, sức khỏe của heo con bị đe dọa. Heo sơ sinh có thể chết hàng loạt vì nhiễm trùng trong những giây phút đầu của tuần lễ đầu sau khi sinh.

Những vú ngực của nái thường có khả năng tiết sữa tốt. Những vú áp chót thường có sữa lúc đầu rồi sau đó ngưng tiết sữa. Vú chót thường sản xuất nhiều sữa nhưng dễ bị viêm, nhất là sau khi cai sữa. Heo con nhỏ vóc khi bú những vú nhiều sữa thì mau lớn, nhưng chúng tiêu thụ sữa không nhiều, nên sữa còn sót lại trong núm vú gây viêm vú dẫn đến kém sữa hoặc bẹt sữa ở các lứa đẻ sau.

Cho heo con bú từng cữ cũng có lợi là đánh thức chúng, tránh tình trạng nái nhiều sữa heo con bú no, ngủ nhiều. Vì khoảng cách giữa hai lần bú xa nhau, heo con không bú hết sữa mỗi lần nái xuống sữa. Sữa ứ đọng trong vú tạo điều kiện cho vi khuẩn từ môi trường xâm nhiễm và phát triển gây viêm vú và làm rối loạn tiêu hóa heo con. Vì vậy những nái có khả năng sinh sữa nhiều, khoảng cách giữa hai lần bú khoảng 1 giờ là tốt. Heo con bú nhiều cữ trong những ngày đầu cũng kích thích nái tiết nhiều oxytocin để co bóp tử cung, tống các sản dịch ra ngoài nhanh hơn. Tình trạng ứ đọng những chất dịch dễ gây viêm đường sinh dục, nhất là vòi trứng, cổ tử cung bị viêm tắc nghẽn, nái bị vô sinh sau này.

3. CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG NÁI SAU KHI ĐẺ VÀ ĐANG NUÔI CON

Sau khi đẻ, nái thường mệt, ăn ít hoặc không ăn nhưng phải cung cấp đầy đủ nước uống. Nếu có điều kiện nên cho nái uống nước cháo tinh bột gạo, bắp, hay cám để cung năng lượng (chất bột đường) bù đắp cho cơ thể bị mất sau khi đẻ.

Định lượng thức ăn hàng ngày theo khả năng tiết sữa của nái và sức bú của heo con, nên tăng lượng thức ăn dần dần để tránh tình trạng nái dư sữa. Lượng thức ăn trung bình cho nái trong thời kỳ nuôi con khoảng 4,5 kg/con mỗi ngày.
Cần quan sát kỹ thay đổi thể vóc của nái để tăng giảm định mức ăn. Nái mập nên hạn chế thức ăn nếu nuôi ít con. Nái gầy nuôi nhiều con nên cho ăn tự do theo nhu cầu vì sự cân bằng dưỡng chất trong thức ăn hàng ngày không đủ bù lại với nhu cầu tiết sữa để nuôi con; nếu không nái sẽ bị suy kiệt sau thời gian nuôi con, chậm động dục lại sau khi cai sữa con. Trong thời kỳ nuôi con các nang noãn vẫn phát triển, dinh dưỡng tốt thì nái đẻ lứa sau mới đạt nhiều con.

Sau khi đẻ cần theo dõi nhiệt độ cơ thể nái, thông thường thân nhiệt nái khoảng 390C. Nếu thân nhiệt trên 400C là tình trạng báo động do nhiễm trùng sau đẻ, phải có biện pháp điều trị thích hợp và kịp thời (hội chứng MMA). Cần phân biệt hội chứng này với sốt sữa (milk fever) để chữa trị đúng cách. Sốt sữa trên heo nái xảy ra ít phổ biến hơn bò sữa. Dấu hiệu của sốt sữa trên heo nái là bầu vú căng, có thể gây đau nhưng không viêm đỏ. Có thể chống sốt sữa bằng chích canxi gluconat vào tĩnh mạch, tốt nhất là truyền dịch.

Phải theo dõi dịch hậu sản bài xuất ở bộ phận sinh dục nái khi đẻ. Nái đẻ bình thường thì dịch hậu sản ít, trong hoặc hơi hồng. Nếu dịch hậu sản quá nhiều, màu trắng đục, hoặc vàng, hoặc xanh nhạt, hoặc đỏ hồng, lợn cợn như mủ, hôi thối… là do nhiễm trùng nặng trong bộ phận sinh dục cái, cần có biện pháp can thiệp. Điều trị bằng cách tiêm kháng sinh kết hợp với bơm thụt rửa bằng thuốc tím hay chất sát trùng. Các biện pháp này có thể giúp điều trị khỏi sự viêm nhiễm nhưng thường có thể gây tắc vòi trứng, viêm tắc tử cung không thể thụ tinh trong các lần động dục kế tiếp. Biện pháp tốt nhất là tiêm oxytocin,sau đó 1-2 giờ lại bơm dung dịch kháng sinh thích hợp vào bộ phận sinh dục nái. Hai biện pháp luân phiên này đem lại hiệu quả hơn chỉ đơn thuần thụt rửa tử cung âm đạo.

Phải quan sát sự xuống sữa của nái mỗi khi gọi con cho bú qua tiếng ịt sữa. Thông thường khi nái sắp cho con bú, nái trở mình nằm nghiêng, gọi con bằng tiếng ít ịt rời rạc. Nghe tiếng ịt, heo con thức dậy, chạy đến bên vú mẹ ủi cắn nhẹ trên núm vú, quầng núm vú. Khi tất cả các con đều tập trung cùng động tác ủi gặm vú, tiếng ịt sữa của nái từ rời rạc chuyển thành nhanh hơn, đến khi tiếng ịt sữa nhanh liên tục rồi im là lúc sữa đang xuống, heo con nút vú liên tục, đây là thời điểm để đoán biết nái có nhiều sữa hay không. Nếu thời gian này kéo dài là nái nhiều sữa, nếu diễn ra nhanh hoặc sau khi bú xong heo con còn cố nút vú là sữa ít. Có thể đánh dấu heo con hoặc cân toàn ổ trước và sau khi bú để biết được khả năng tiết sữa của heo nái. Thông thường giai đoạn xuống sữa kéo dài từ 30 – 60 giây. Lượng sữa thải ra cho mỗi heo con rất khác nhau tùy theo cá thể nái, giống, lứa đẻ, tình trạng dinh dưỡng, khí hậu thời tiết….

Trong vòng 2-3 ngày sau khi đẻ, mỗi heo con quen bú 1-2 vú mà thôi. Nếu sau khi đẻ, các vú đều đồng loạt tiết sữa, thì sau 48 giờ những vú không có heo con bú sẽ tự động ngưng tiết sữa và teo lại. Nếu vú bị viêm gây hư hỏng tuyến sữa, vú đó vĩnh viễn không tiết sữa nữa.

Thông thường nái đẻ tốt, sự tiết sữa tăng từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 21 rồi giảm dần. Do đó ở tuần lễ thứ tư có sự khủng hoảng vì thiếu sữa mẹ khi đàn heo con đang sức tăng trưởng cao. Để tránh hiện tương đàn con tăng trưởng chậm lại, tập heo con ăn sớm là một biện pháp kỹ thuật cần thiết.

Để đánh giá khả năng tiết sữa của nái người ta dùng công thức sau:

Sản lượng sữa (kg) = Tổng tăng trọng (kg) của đàn heo con rồi nhân với 3

Như vậy để heo con tăng lên 1 kg cần đến 3 kg sữa. Người ta thường tính sản lượng sữa của heo nái 7 ngày nuôi con bằng cách cân trọng lượng toàn ổ heo con 7 ngày tuổi rồi trừ cho trọng lượng heo con sơ sinh toàn ổ rồi nhân với 3. Sản lượng sữa của nái sau 7 ngày thường được các nhà chăn nuôi khảo sát hơn vì heo con chưa biết ăn gì ngoài sữa mẹ, nên tăng trọng của chúng là do sữa mẹ mà thôi. Ngoài ra người ta cũng có thể tính sản lượng sữa của nái khi heo con 21 ngày tuổi, thời kỳ này bị ảnh hưởng một phần của thức ăn.

Người ta cũng tính sản lượng sữa cho mỗi lần xuống sữa của nái bằng cách cân trọng lượng toàn ổ heo con trước và sau khi bú. Hiệu số của hai giá trị này là trọng lượng sữa nái tiết ra cho một lần bú mẹ. Đếm số lần heo nái cho con bú trong ngày ta sẽ tính được sản lượng sữa của nái trong ngày.

Để nái tiết sữa tốt, cần tạo bầu tiểu khí hậu tốt cho nái, không quá nóng, quá lạnh, ẩm thấp, không khí quá khô, tránh gió lùa mưa tạt. Thức ăn của nái phải đủ chất, không hư mốc, vón cục, phải đủ lượng xơ cần thiết tránh táo bón. Luôn cung cấp đủ nước.

Khả năng tiết sữa của nái thay đổi theo từng cá thể, giống, lứa đẻ, số con nuôi, tình trạng dinh dưỡng, khí hậu thời tiết, biện pháp chăm sóc. Trong 3 nhóm giống Yorkshire, Landrace và Duroc thì Landrace có khả năng tiết sữa tốt nhưng phải thỏa mãn đủ nhu cầu dinh dưỡng, Duroc kém khả năng tiết sữa nhất. Thông thường nái đẻ lứa 1, lứa 2 thường kém khả năng tiết sữa hơn lứa thứ 3, thứ 4 nhưng những lứa đẻ sau đó thường bắt đầu giảm. Đôi khi cũng có những nái đẻ lứa 6, 7 vẫn còn tiết sữa tốt. Nái đẻ trong mùa nóng (tháng 4, tháng 5 dương lịch) kém sữa nhất, nái đẻ trong tháng 12, tháng 1 thì tiết sữa tốt hơn. Những nái nuôi dưới 6 con/ổ tiết sữa ít hơn những nái nuôi 9 – 10 con/ ổ, nái nuôi quá nhiều con thì khả năng tiết sữa ít đi vì cơ thể nái gầy sút nhanh.

Nái nuôi con trong tháng thứ nhất thường giảm khoảng 10% trọng lượng cơ thể. Thức ăn xấu, thiếu dưỡng chất có thể làm nái giảm trọng nhiều hơn và nái chậm động dục trở lại sau khi cai sữa.

Trong thời gian tiết sữa nuôi con, có sự cân bằng âm giữa lượng canxi, phốt-pho, chất béo giữa khẩu phần ăn với lượng sữa nuôi con. Nái phải lấy canxi, phốt-pho, chất béo dự trữ trong cơ thể để sản xuất sữa. Như vậy, trong thời gian nuôi con nái giảm nhanh lớp mỡ bọc thân (mỡ dưới da), xương trở nên xốp hơn, nái yếu chân nên dễ bị bại. Tuy nhiên khẩu phần quá thừa canxi, phốt-pho, chất béo cũng không tốt. Tương tự, gia tăng hàm lượng chất sắt trong khẩu phần ăn của nái cũng không làm tăng chất sắt trong sữa để giúp heo con tránh sự thiếu sắt ở tuần lễ thứ 2, thứ 3 khi nuôi giam trên chuồng xi măng. Bổ sung chế phẩm chứa iốt cho nái để tăng hoạt động tuyến giáp cũng giúp cho nái tiết sữa tốt hơn, nhưng phải thận trọng không được dùng quá liều. Các chế phẩm chứa iốt không thể trị chứng viêm vú, sốt sữa, tắc sữa hoặc tuyến sữa bị teo.

ky-thuat-cham-soc-nuoi-duong-nai-de-va-heo-con-so-sinh

4. CHĂM SÓC HEO CON BÚ MẸ (HEO CON THEO MẸ)

Heo con theo mẹ cần được nhốt riêng và cho bú theo cữ khoảng 3 – 4 ngày sau khi sinh để tránh tình trạng nái mệt đè đạp chết con, và dễ theo dõi tình trạng tiết sữa của nái. Sử dụng chuồng nái đẻ tuy tiết kiệm nhân công nhưng cũng khó tránh tình trạng nái đè đạp con. Mỗi cữ bú thường cách nhau 1 giờ 30 hoặc 2 giờ tùy theo tình trạng tiết sữa của nái.

Nái dư sữa (bệ sữa phát triển to), heo con bú không hết dễ gây tình trạng đọng sữa gây viêm vú. Trường hợp này, nên hạn chế thức ăn cho nái và cho heo con bú nhiều cữ hơn. Sau khi heo con bú xong, gom chúng vào ổ úm cũng là biện pháp tốt để tránh tình trạng heo con bị lạnh về đêm, dễ gây rối loạn tiêu hóa. Tuy nhiên ổ úm phải thoát nước tốt để tránh nhiễm bẩn do phân và nước tiểu. Mỗi lần cho heo con bú và gom vào ổ úm, người chăm sóc phải quan sát kỹ tình trạng sức khỏe heo con, cần tái sát trùng rốn, kiểm tra sức bú của heo con, sự xuống sữa của nái, tình trạng tiêu chảy của heo con, nhịp thở và phát hiện sớm những con thiếu vú mẹ, vú mẹ không sữa, để sớm ghép sang đàn khác.

Sau 3 – 4 ngày nái khỏe, có thể cho heo con ra vào ổ úm tự do. Trong vòng 3 ngày sau khi sinh, nếu heo con không phát triển thể vóc, da lông không bóng mượt mà vẫn còn đỏ, yếu ớt, da nhăn, nằm chồng lên nhau, gầy còm trơ xương… là tình trạng nái mất sữa, kém sữa, cần có biện pháp can thiệp kịp thời.

Khi heo con 3 ngày tuổi, tiến hành tiêm chất sắt (khoảng 1 ml chế phẩm chứa 100 mg Fe+++/con) và tiến hành tiêm lặp lại lần hai cách 10 ngày sau, để chống thiếu chất sắt lúc 3 tuần tuổi. Một số chế phẩm có chứa các yếu tố cần thiết để tạo hồng cầu như đồng, sinh tố B12…cũng rất hữu dụng.

Đối với heo con đực không làm giống, tiến hành thiến lúc 7 ngày tuổi. Lúc này dịch hoàn còn nhỏ, vết mổ nhỏ, mau lành. Nên cắt hai đường trên da bao dịch hoàn để dễ thoát chất dịch từ vết thiến, tránh ứ đọng gây viêm. Đối với heo cái không làm giống, để nuôi thịt thì không cần thiến.

Khi được 10 ngày tuổi, tập cho heo con ăn sớm để tránh khủng hoảng vì thiếu sữa mẹ trong tuần tuổi thứ tư (sữa mẹ giảm sau tuần thứ 3). Việc tập ăn giúp cho heo con biết ăn sớm. Người ta thường sử dụng các loại tấm, bắp, đậu nành rang xay hoặc nấu chín, có mùi thơm, nhét vào miệng heo con vài lần cho quen và luôn luôn để thức ăn tập ăn vào ổ úm hay máng bán tự động để heo con tự do liếm láp. Thức ăn tập ăn có thể không cần chứa hàm lượng protein cao vì heo con đang có nguồn sữa mẹ giàu dưỡng chất. Phải cho heo con làm quen với nguồn gluxit, lipit, chất đạm của các loại thực liệu thông thường để hệ thống tiêu hóa heo con sớm bài tiết các enzym tiêu hóa thích hợp.

Khi heo con bắt đầu ăn mạnh thì thay thế dần thức ăn tập ăn bằng thức ăn hỗn hợp.Nên cho heo con ăn tự do trong các máng bán tự động, tránh dùng thức ăn ẩm mốc. Nếu thức ăn nấu hoặc ẩm thì cho ăn theo bữa ăn, phần dư thừa phải được lấy đi để tránh sự lên men chua và thối. Nếu có điều kiện, cho ăn thêm thức ăn xanh càng tốt, nhưng phải rửa thật sạch để tránh nhiễm ký sinh trùng đường ruột.

Một số thức ăn dạng bột có thể hòa lỏng cho heo con ăn. Thức ăn này có giá trị dinh dưỡng cao và phù hợp với heo con chưa có răng để nhai thức ăn viên trong 10 – 15 ngày tuổi.
Mặc dù sữa mẹ có chứa nhiều nước, nhưng cũng cần có núm uống cung cấp đầy đủ nước uống sạch cho heo con.

Chuồng trại phải ấm áp, khô ráo, tránh gió lùa mưa tạt. Trong tháng đầu heo con không cần tắm. Những lúc trời nóng oi bức có thể tắm heo con lúc 3 – 4 tuần tuổi vào trưa; nếu chuồng trại thông thoáng, tắm mát cho heo con là không cần thiết. Nếu nái cần tắm mát để tiết sữa nhiều, chú ý tránh làm ẩm ướt chuồng và heo con, nếu không heo con dễ bị lạnh và rối loạn tiêu hóa.
Cần phát hiện sớm những dấu hiệu bệnh ở đường hô hấp, tiêu hóa để sớm có biện pháp can thiệp kịp thời, giảm bớt tổn thất.

Sự tăng trưởng và sức kháng bệnh của heo con thời kỳ này phụ thuộc vào nái mẹ. Nếu heo nái được chủng ngừa đầy đủ, nuôi dưỡng tốt trong lúc mang thai và tiết sữa, biện pháp chăm sóc nái tốt, thì đàn heo con sẽ tăng trọng nhanh, ít bệnh tật. Nếu nái bị bệnh viêm vú, viêm tử cung sốt, bỏ ăn, kém ăn, viêm khớp…, đàn heo con thường bị ảnh hưởng xấu, gầy còm, tăng trọng kém, dễ bị tiêu chảy, tỷ lệ chết cao.

Heo con có tập quán liếm phân, nhất là ăn phân nái mẹ. Do đó vệ sinh chuồng kỹ, tránh đọng chất bẩn, phân, thức ăn hư mốc ở các hốc ngách, góc tường là cần thiết. Các vết nứt, lỗ thủng ở nền chuồng cần dặm lại trước khi nuôi nái đẻ và heo con vì những nơi này thường ứ đọng nước, phân, thức ăn sình thối, heo con rất thích ủi, ăn các chất này và dễ bị bệnh đường tiêu hóa, hô hấp…Các loại chuồng bằng sắt nếu không vệ sinh kỹ cũng bị vấy bẩn, sét rỉ, heo con cắn gặm cũng dễ bị nhiễm trùng.

Tập quán heo là vừa ăn, vừa uống, nên máng uống sẽ chứa nhiều cặn thức ăn dễ hư thối, ô nhiễm nước uống. Heo con có tập quán vào máng nước vừa tiểu vừa uống, hoặc vừa đi phân vừa uống. Một số heo con thích vào ổ úm để đi phân và đái, do đó ổ úm cần được vệ sinh kỹ. Từ tuần tuổi thứ ba người ta đóng kín không cho heo con vào ổ úm để tránh tình trạng heo con đi phân và đái trong đó.

TH.S VÕ VĂN NINH & TH.S BÙI THỊ KIM PHỤNG, ĐH NÔNG LÂM TP HCM

Naipet.com

Facebook Comments
Share.

Chat
1