Theo Ruurd T. Zijlstra1 ((Đại học Alberta) và Eduardo Beltranena (Sở Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Alberta) trong Hội nghị về heo tại Luân Đôn 2014, việc sử dụng thức ăn thay thế giúp làm giảm chi phí thức ăn trên một đơn vị khối lượng thịt, nhưng đồng thời đối mặt thách thức về cân bằng chi phí – hiệu quả, năng suất dự kiến, sức khỏe vật nuôi, môi trường và chất lượng thịt của heo.
Ảnh hưởng của chất xơ vào quá trình tiêu hóa và hấp thụ ở các phân đoạn khác nhau của đường tiêu hóa
Bên cạnh tinh bột, chất béo và protein thì chất xơ là một trong bốn chất dinh dưỡng quan trọng cung cấp năng lượng. Hiệu quả của khẩu phần giàu chất xơ có thể phụ thuộc vào sự cân bằng giá trị năng lượng của khẩu phần. Để mang lại năng lượng cho heo, chất xơ phải được lên men trong đường tiêu hoá và chuyển hóa thành các a-xít béo dễ bay hơi (VFA).
Khẩu phần chứa nguyên liệu thay thế cao từ các sản phẩm phụ có thể dẫn đến khẩu phần có hàm lượng chất xơ cao. Đối với heo cai sữa, khẩu phần giàu chất xơ sẽ làm giảm lượng thức ăn ăn vào và do đó cản trở việc hấp thụ năng lượng trong giai đoạn heo cần năng lượng cho sự tăng trưởng của chúng. Tuy nhiên điều này vẫn chưa được chứng minh chắc chắn vì những thành phần khác cũng có vai trò nhất định. Chất xơ đóng một vai trò quan trọng trong sức khỏe đường ruột. Đối với heo vỗ béo và heo xuất chuồng, khẩu phần nhiều chất xơ sẽ làm tăng khối lượng nội tạng, và do vậy làm giảm trọng lượng quầy thịt sau giết mổ.
Nhìn chung, khẩu phần nhiều chất xơ có giá trị năng lượng tiêu hóa thấp và do đó hiệu quả sử dụng thức ăn thấp. Tuy nhiên, tùy thuộc vào giá cả của thức ăn thay thế mà khẩu phần giàu chất xơ có thể là một giải pháp nhằm giảm chi phí thức ăn, và do đó có thể hỗ trợ ngành công nghiệp chăn nuôi heo phát triển bền vững.
TỔNG QUAN
Thực tế, các khẩu phần cho heo có hàm lượng chất xơ cao hơn so với khẩu phần cơ bản dựa trên bắp và đậu tương đó là do sự gia tăng sử dụng các nguyên liệu thay thế khác từ các sản phẩm phụ (Zijlstra và Beltranena, 2013ab; Woyengo và cộng sự, năm 2014).
Các sản phẩm phụ từ ngành công nghiệp nhiên liệu sinh học là một nguyên liệu thay thế quan trọng (Shurson và cộng sự, 2012). Heo là loài ăn tạp nên có thể chuyển đổi thức ăn không phù hợp cho người thành protein động vật chất lượng cao. Việc sử dụng các phụ phẩm từ thực phẩm và từ công nghiệp nhiên liệu sinh học sẽ cải thiện đáng kể sự cân bằng nguồn protein dành cho người.
So với khẩu phần truyền thống dựa trên một loại ngũ cốc duy nhất như là một nguồn năng lượng và bột đậu nành như là nguồn protein, khẩu phần có hàm lượng phụ phẩm cao có nguy cơ làm gia tang hàm lượng chất xơ trong khẩu phần. Nguy cơ này có thể được kiểm soát bằng cách sử dụng chương trình xây dựng công thức thức ăn hiện đại theo năng lượng thuần và axit amin tiêu hóa hồi tràng tiêu chuẩn, đánh giá thức ăn chăn nuôi bằng phản xạ quang phổ hồng ngoại, sử dụng men phân giải chất xơ, và quy trình chế biến thức ăn chăn nuôi để giảm tác động của chất xơ (Zijlstra và Beltranena, 2013b). Kết hợp, các phương pháp này có thể hỗ trợ các nhà sản xuất thịt đạt được mức tăng trưởng dự kiến của heo, đặc điểm thịt và chất lượng thịt.
Cơ chế
Báo cáo trước đây đã trình bày về sự tiêu hóa, hấp thu, chuyển hóa chất xơ, và các tác động của chất xơ đến sinh lý tiêu hóa ở heo (Zijlstra và cộng sự, 2012.). Phòng thí nghiệm đã sử dụng phương pháp lên men thực nghiệm mô phỏng theo sự tiêu hóa chất xơ ở cơ thể sống (Jha và Leterme, 2012). Chất xơ có thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa năng lượng ở heo. Các loai chất xơ khác nhau về đặc điểm lên men và độ nhớt, và điều này ảnh hưởng rất quan trọng đến chức năng sinh lý (Dikeman và Fahey, 2006.). Trong ruột, chất biến dưỡng từ chất xơ có thể trực tiếp kích thích các chức năng sinh lý thông qua các đáp ứng nội tiết cục bộ (Hooda, 2010).
Bản thân heo không thể tự tiêu hóa chất xơ, chất xơ cần được lên men bởi các vi sinh vật đường ruột. Sự kết hợp của tốc độ di chuyển trong ruột, sự lên men và độ nhớt có thể liên quan đến ảnh hưởng của chất xơ đối với tính hữu dụng dinh dưỡng và sự cư trú của vi sinh vật ở phần cuối của ruột của (Metzler-Zebeli và cộng sự., 2010).
Khẩu phần cai sữa giàu chất xơ
Thí nghiệm cung cấp một loạt các khẩu phần có mức năng lượng khác nhau từ 2,37 – 2.19 Mcal NE/ kg được cho heo con ăn (Beaulieu và cộng sự, 2006). Khẩu phần được xây dựng bằng cách thay thế gần như hoà toàn yến mạch bằng lúa mạch để làm giảm giá trị năng lượng trong khẩu phần. Khi đó, hàm lượng chất xơ axit (ADF) tăng tương ứng từ 2,5 đến 4%. Trái ngược với dự kiến (Nyachoti và cộng sự, 2004), những heo con ăn khẩu phần chứa nhiều chất xơ và ít năng lượng thì có lượng thức ăn ăn vào và tăng trọng/ ngày cao hơn, nhưng hiệu quả thức ăn lại giảm (Beaulieu và cộng sự, 2006). Những kết quả này cho thấy heo con có thể không lúc nào cũng có phản ứng tiêu cực với
khẩu phần giàu chất xơ.
Để tìm hiểu, thí nghiệm sử dụng thức ăn thay thế trong khẩu phần của heo con thay thế cho bột đậu nành được tiến hành với một loạt các thí nghiệm (Bảng 1). Thức ăn thay thế gồm DDGS (Avelar và cộng sự., 2010), bã hạt cải dầu Brassica juncea đựơc chiết xuất bằng ép đùn (Landero và cộng sự, 2011, 2012a; Seneviratne và cộng sự, 2011), bã hạt cải dầu Brassica juncea được chiết xuất bằng dung môi (Landero và cộng sự, 2013).
Đôi khi, thử nghiệm được tiến hành với thức ăn thay thế là các bã hạt có hàm lượng protein thô từ 20 – 30 % để thay thế bột đậu nành và lúa mì. Nhóm hạt này bao gồm cả đậu lăng (Landero và cộng sự., 2012c). Điều thú vị là, trong khi hàm lượng chất xơ axit tăng thì năng lượng tiêu hóa giảm, và ảnh hưởng đến sự giảm lượng thức ăn ăn vào không rõ ràng (Bảng 1).
Cuối cùng, nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như bã hạt cải dầu chiết xuất bằng dung môi cũng được kiểm chứng (Zhou và cộng sự, 2013.). Điều thú vị là, với một số loại thức ăn hoặc khẩu phần chứa một số nguyên liệu mà heo thích ăn (Landero và cộng sự., 2012b), khẩu phần có chứa protein thay thế có thể giúp heo đạt được năng suất tương đương với heo được cho ăn khẩu phần cơ bản dựa trên bột đậu tương (Landero và cộng sự., 2011, 2012a ).
Trong mỗi thí nghiệm trên, khẩu phần được xây dựng theo quy tắc cân bằng giá trị năng lượng thuần và axit amin tiêu hóa hồi tràng tiêu chuẩn. Do đó, ảnh hưởng của các thành phần kiểm tra không thể lien quan đến giá trị năng lượng hoặc hàm lượng axit amin thấp hơn.
Khẩu phần giàu chất xơ cho heo choai và heo trưởng thành
Sử dụng phương pháp tiếp cận tương tự đối với heo choai và heo trưởng thành, bằng cách tăng lượng phụ phẩm như bã hạt cải dầu chiết xuất bằng ép đùn trong khẩu phần hoặc kết hợp nhiều phụ phẩm, ghi nhận heo ăn khẩu phần chứa nhiều phụ phẩm có thể không bị giảm hiệu suất tăng trưởng (Hình 1).
Rõ ràng, đáp ứng của heo khi được cho ăn khẩu phần chứa nhiều phụ phẩm không đồng nhất giữa các thí nghiệm. Heo trong một số thí nghiệm đã bị giảm hiệu suất tăng trưởng (Seneviratne và cộng sự, 2010; trong thí nghiệm 1 của Jha và cộng sự, 2013), trong khi hiệu suất tăng trưởng vẫn không bị ảnh hưởng ở một số thí nghiệm khác (như trong thí nghiệm 2 của Jha và cộng sự, 2013).
Trọng lượng quày khi giết mổ giảm đối với những heo ăn khẩu phần chứa nhiều phụ phẩm. Mức giảm này cho thấy rằng việc tăng nhiều phụ phẩm trong khẩu phần làm tăng hàm lượng chất xơ, giảm trọng lượng quày thịt (Seneviratne và cộng sự, 2010; Jha và cộng sự, 2013.). Heo ăn khẩu phần giàu chất xơ thì tăng kích thước và trọng lượng ruột (Jørgensen và cộng sự, 1996).
Việc gia tăng phụ phẩm trong khẩu phần làm tăng trọng lượng nội tạng, từ đó làm tăng nhu cầu về năng lượng và các axit amin cho các cơ quan này (Yen, 1997; Nyachoti và cộng sự, 2000). Vì vậy, việc tăng kích thước và trọng lượng nội tạng tương ứng với việc tăng nhu cầu năng lượng thuần và axit amin tiêu hóa hồi tràng tiêu chuẩn. dẫn đến giảm tích tụ protein trong thịt và làm giảm độ dày mỡ lưng (Jha và cộng sự, 2103). Khẩu phần chứa nhiều threonine tương ứng với hàm lượng chất xơ trong khẩu phần có ý nghĩa quan trọng nhằm giảm bớt tác động này (NRC, 2012).
Khẩu phần thử nghiệm nếu chỉ bổ sung một loại nguyên liệu thức ăn thay thế sẽ không phù hợp thực tế. Do đó, các thử nghiệm trên heo choai và heo trưởng thành với các khẩu phần bổ sung phụ phẩm gồm DDGS lên men từ lúa mì và ngô (Smit và cộng sự, 2014.).
Việc tặng bã hạt cải dầu trong khẩu phần làm giảm rõ rệt hiệu suất sử dụng năng lượng tiêu hoá tổng. Trong toàn bộ thử nghiệm, việc tăng bã hạt cải dầu trong khẩu phẩn có liên quan đến việc giảm lượng thức ăn ăn vào và tăng trọng/ ngày. Việc tăng bã hạt cải dầu trong khẩu phần làm giảm hiệu quả sử dụng thức ăn. Việc tăng bã hạt cải dầu trong khẩu phần gồm 15 % DDGS không ảnh hưởng đến trọng lượng thân thịt, trọng lượng thịt xẻ, độ dày mỡ lưng, và lượng nạc ước tính. Thử nghiệm cho thấy heo choai, heo thịt thiến và nái hậu bị có thể được cho ăn khẩu phần chứa đến 24 % bã hạt cải dầu và 15 % DDGS mà không ảnh hưởng đến hiệu suất tăng trưởng, trọng lượng thân thịt hoặc chất lượng thịt.
KẾT LUẬN
Khẩu phần chứa nhiều phụ phẩm, ít phụ thuộc vào các loại ngũ cốc là tốt, nhưng khẩu phần này sẽ chứa nhiều chất xơ hơn so với khẩu phần trước đây. Là một loài ăn tạp, heo rất phù hợp cho việc sử dụng phụ phẩm bổ sung để chuyển hoá thành thịt, điều này tạo ra nhiều thách thức lẫn cơ hội cho người chăn nuôi.
Việc cho ăn thức ăn thay thế có thể giảm chi phí thức ăn trên một đơn vị thịt. Tuy nhiên cần lưu ý đến hiệu quả sử dụng thức ăn, hiệu suất tăng trưởng, sức khỏe vật nuôi, ô nhiễm môi trường, đặc điểm quầy thịt và chất lượng thịt.
Biên dịch: Heo Team
Theo thepigsite
Naipet.com