Tiêm Ngừa PCV TYPE 2 Được Thực Hiện Ở Hàn Quốc

0

Porcine circovirus loại 2 (PCV 2) – gây bệnh còi cọc trên heo – là tác nhân chủ yếu kết hợp với PMWS, gây ra những hội chứng kết hợp thường được nhìn thấy tại các trang trại bị lan nhiễm PCV2.

PMWS thường tồn tại cận lâm sàng trong những trang trại chăn nuôi heo lan nhiễm PCV2 ở mức độ thấp, nhưng bộc phát rõ rệt khi lan nhiễm ở mức độ cao. PMWS là một loại bệnh dịch lan truyền ảnh hưởng lên heo con trong giai đoạn cai sữa với những dấu hiệu lâm sàng: sụt cân, hô hấp khó, vàng da và tỉ lệ tử vong cao.

tiem-ngua-pcv-type-2-duoc-thuc-hien-o-han-quoc

Nó được nhận diện lần đầu tiên vào năm 1991 tại Canada và đã trở thành mối đe dọa chính cho ngành công nghiệp heo trong nền kinh tế thế giới. PCVD thường gây ảnh hưởng lên heo trong giai đoạn từ 7 – 15 tuần tuổi, đặc biệt là trong pha tăng trưởng sớm, nhưng trong thời gian gần đây, nó được nhận thấy trong các nhóm tuổi khác nhau. PMWS (thường được gọi là PCVD) là mối đe dọa kinh tế chủ yếu cho ngành công nghiệp heo tại Hàn Quốc.

Các nhân tố kết hợp như môi trường nuôi dưỡng, các tác nhân gây stress, lây nhiễm virus, bao gồm Parvovirus trên heo, SIV, PRRSV và nhiễm trùng do vi khuẩn như M. hyopneumoniae, H. parasuis, P. multocida, A. pleuroneumoniae, Salmonella spp. đã được nhận diện làm tăng lây nhiễm PCV2 và các dấu hiệu rõ ràng của bệnh liên quan là PMWS.

Cho đến bây giờ, các biện pháp ngăn chặn và chữa trị nhiễm trùng PCV đều tập trung vào phương pháp vệ sinh và quản lý để kiểm soát các bệnh phức tạp và áp dụng thay đổi cách thức quản lý nhằm giảm tối đa các tác nhân gây stress được biết như nguyên nhân làm lan nhiễm PCVD. Đã có những báo cáo cho rằng biện pháp ngăn chặn PCVD hiệu quả nhất là tiến hành tiêm ngừa vaccine PCV2. Đến nay, vaccine PCV2 vô hoạt, vaccine PCV1-2 vô hoạt và vaccine vô hoạt tiểu phần PCV2 ORF2 đã được phát triển và giới thiệu ra thị trường.

Circumvent PCV2 (Intervet/Schering-Plough), là vaccine vô hoạt tiểu phần có chứa protein vỏ của virus được mã hóa bởi ORF2 của bộ gen PCV2. Đây là một vaccine vô hoạt tiểu phần và vì thế không thể gây ra PCVD.

Nghiên cứu này được thiết kế nhằm nghiên cứu về hiệu quả và độ an toàn của Circumvet PCV2 chống lại các bệnh kết hợp PCV2, tại trang trại nhiễm bệnh dạng nội vùng. Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả bảo vệ của Circumvet PCV2 trên 159 heo con trong giai đoạn cai sữa ở 3 trang trại khác nhau. Những trang trại chăn nuôi heo được lựa chọn dựa trên địa điểm, trang thiết bị, số lượng heo, huyết thanh dương tính với PCV2 hay không, tình trạng bệnh tật theo những nhóm tuổi khác nhau, … Mặt khác, trại cũng được kiểm tra về kháng thể và kháng nguyên đối với PRRSV, Salmonella spp, Mycoplasma hyopneumonia.

Thiết kế thí nghiệm
Tại mỗi trang trại của 3 trang trại thương mại được chọn, heo con được lựa chọn cơ bản dựa trên cân nặng và giới tính, chia thành 2 nhóm: nhóm thí nghiệm và nhóm đối chứng. Nhóm thí nghiệm tại mỗi trang trại được tiêm tại cơ cổ 2ml Circumvent PCV2 lúc 3 và 6 tuần tuổi (n = 38 – trang trại A, n = 25 – trang trại B, n = 25 – trang trại C) trong khi nhóm đối chứng cũng được tiêm tương tự nhưng là với dung dịch nước muối (n = 21 – trang trại A, n = 25 – trang trại B, n = 25 – trang trại C). Nghiên cứu kéo dài trong 11 tuần và đánh giá kết quả khi heo được 17 tuần tuổi.

Tất cả heo con tham gia thí nghiệm đều được nuôi và quản lý trong điều kiện đồng nhất và được cung cấp nước liên tục. Thức ăn được cung cấp phù hợp với thức ăn tại mỗi trang trại. Bên cạnh đó, trước khi tiêm vaccine, tiến hành kiểm tra kháng nguyên PCV2 vaccine, PRRS, Salmonella spp, Mycoplasma hyopneumonia trên tất cả heo con. Những kết quả này, cũng như tỉ lệ tử vong, đều được hiển thị trong bảng 1.

Bảng 1: Tỉ lệ tử vong tại trang trại A, B, C trước khi bắt đầu thí nghiệm
Tỉ lệ tử vong (%)
Trang trại
Tổng số heo
Mới sinh
Cai sữa
Phát triển
Trưởng thành
A
2350
6.1
0.5
2.2
0.2
B
2400
21.9
1.7
4.8
3.7
C
1400
6.6
1.3
2.1
2.0

 

Kết quả
Bảng 1 trình bày tỉ lệ tử vong của heo con mới sinh và trong giai đoạn cai sữa, bao gồm cả heo đang trong giai đoạn phát triển và trưởng thành từ 3 trang trại chăn nuôi heo khác nhau trước khi thí nghiệm được tiến hành, cùng với những kết quả về kháng thể và kháng nguyên.

Kết quả ghi nhận tất cả các con heo đều có kháng thể với PCV2, và một số con còn có kháng nguyên của virus trong máu, cho thấy có tình trạng nhiễm virus nội vùng. Không phát hiện thấy sự hiện diện của Salmonella, M. hyopneumoniae hay H. parasuis. Vài kết quả huyết thanh học cho thấy có sự xâm nhiễm của PRRSV.

Để nghiên cứu hiệu quả ngăn ngừa của Circumvet PCV2, các mẫu huyết thanh được lấy ở tuần thứ 3 (ngay trước lần tiêm vaccine đầu tiên), tuần thứ 6 (ngay trước lần tiêm vaccine thứ hai), và tại tuần tuổi thứ 10, 13, 16. Các mẫu máu được kiểm tra nồng độ kháng thể PCV2 trong máu bằng phương pháp đo độ quang học (đơn vị OD). PCR được sử dụng để phát hiện PCV2 từ mẫu máu, dịch mũi và phân.

Tất cả heo con trong cả 3 trang trại đều cho thấy sự thay đổi tương tự nhau về giá trị OD.
Sơ đồ 1 trình bày sự biến đổi nồng độ kháng thể tại trang trại A, như là một ví dụ. Không có sự khác biệt nào ở 3 tuần tuổi, trước khi tiêm vaccine, giữa nhóm đối chứng và nhóm được tiêm ngừa. Cũng như vậy, không có sự khác biệt ở 6 tuần tuổi, ngay tại thời điểm tiêm ngừa lần 2. Tuy nhiên, từ đó về sau, nồng độ kháng thể cao hơn rõ rệt ở nhóm heo không được tiêm ngừa, cho thấy có đáp ứng với virus.

Tất cả heo đều được kiểm tra phản ứng phụ xảy ra khi tiêm ngừa vaccine, như là run rẩy, suy nhược, sốt, sưng tấy và viêm ruột. Không có bất kỳ hiện tượng nào cho thấy tác dụng phụ của vaccine lên bất kỳ con heo nào được tiêm ngừa, khi so sánh kết quả với heo trong nhóm đối chứng.

Ảnh hưởng của việc tiêm ngừa lên cân nặng.
Các chỉ số cân nặng, bao gồm tăng trong trung bình trên mỗi con heo và tăng trọng ngày, đã được đánh giá vào tuần tuổi thứ 3, 10, 13, 16. Không có sự khác biệt nào về cân nặng cơ thể giữa nhóm được tiêm vaccine và nhóm đối chứng trước khi được tiêm ngừa. Cũng như vậy, vào tuần tuổi thứ sáu và thứ chín cũng không có sự khác biệt về cân nặng. Tuy nhiên, vào tuần thứ 13, cân nặng trung bình của nhóm được tiêm vaccine là 35,5 + 4,6 kg so với cân nặng trung bình của nhóm đối chứng là 34,4 + 5,1, có sự khác biệt có ý nghĩa (p = 0,042). Và ở 16 tuần tuổi thì sự phát triển cũng tương tự, khi mà cân năng trung bình của nhóm được tiêm vaccine là 48,0 + 6,6 kg khi so với nhóm đối chứng là 44,4 + 7,7 kg (p = 0,038).

Dựa trên những kết quả này, tiêm ngừa vaccine chống PCV2 đã cho những biểu hiện tích cực về cân năng ở giai đoạn tăng trưởng sau. Tăng trọng trung bình ở nhóm heo được tiêm ngừa cao hơn rất có ý nghĩa khi so với nhóm đối chứng, khoảng 9 – 13% ở mỗi trang trại.

Bảng 2: Kết quả phát hiện kháng nguyên (Ag)/ kháng thể (Ab) trước khi bắt đầu thí nghiệm
PCV-2
PRRSV
Salmonella spp.
M. hyopneumoniae
H. parasuis
Trang trại
Ag
Ab
Ag
Ab
Ag
Ag
Ag
A
5/25
25/25
0/25
2/25
0/25
0/25
0/25
B
6/25
25/25
0/25
5/25
0/25
0/25
0/25
C
8/25
25/25
0/25
3/25
0/25
0/25
0/25

 

Tỉ lệ tử vong
Tỉ lệ tử vong khi sử dụng Circumvet PCV2 đã được ghi nhận và thống kê trong các khoảng thời gian từ tuần tuổi 3 đến 6, 6 đến 10, 10 đến 13 và từ 13 đến 17. Một heo chết trong 38 heo ở giai đoạn từ tuần 13 – 17 ở nhóm có tiêm ngừa cũng như nhóm đối chứng. Tuy không có sự khác biệt cụ thể, nhưng dường như nhóm có tiêm vaccine cho tỉ lệ tử vong thấp hơn nhóm đối chứng.

Bảng 3: Tỉ lệ tử vong trong nhóm có tiêm vaccine và nhóm đối chứng
sau khi tiêm Circumvent PVC2 (Trại A)
Thời gian (tuần) – lượng heo chết
3 – 6
6 – 10
10 – 13
13 – 17
Tổng (%)
Trại A
Nhóm tiêm vaccine
Nhóm đối chứng
0/38
0/38
0/38
1/38
1/38 (2.63)
Trại B
Nhóm tiêm vaccine
Nhóm đối chứng
0/25
0/25
0/25
0/38
0/25 (0)
Trại C
Nhóm tiêm vaccine
Nhóm đối chứng
0/25a
0/25
0/25
0/25
0/25 (0)

 

Kết luận
Những ghi nhận dưới đây được rút ra từ thí nghiệm về hiệu quả và độ an toàn của Circumvet PCV trong phòng chống lan nhiễm PCV-2 tại các trang trại được lựa chọn ở Hàn Quốc.

1. Lượng kháng thể đặc hiệu PCV trong máu thấp hơn.
Việc tiêm ngừa Circumvet PCV cho thấy hiệu giá kháng thể trong máu được duy trì hoặc giảm thấp hơn khi so với heo không được tiêm vaccine có hiệu giá kháng thể tăng theo tuổi (10 – 16 tuần).

2. Hiệu quả rõ rệt lên tăng trọng.
Bắt đầu vào tuần tuổi thứ 13, trọng lượng cơ thể của nhóm có sử dụng Circumvet PCV khác biệt có ý nghĩa so với nhóm đối chứng (p = 0,042) cho đến 16 tuần tuổi (p = 0,038), tương ứng từ 9 – 13% tại mỗi trang trại.

3. Tỉ lệ tử vong thấp hơn.
Heo được tiêm Circumvent PCV cho thấy tỉ lệ tử vong thấp hơn khi thí nghiệm tại 3 trang trại khác nhau.

4. Thí nghiệm an toàn.
Không có bất cứ phản ứng phụ nào trong suốt thời gian tiêm ngừa và cũng không có báo cáo nào về phản ứng phụ tại vị trí tiêm khi tiêm với thể tích thí nghiệm.

Vì vậy, tiêm ngừa với vaccine Circumvent PCV là một cách an toàn và hiệu quả, đem lại lợi ích cho heo và nhà sản xuất chống lại Porcine Circovirus. Chế độ tiêm ngừa cần phải phù hợp với quy trình tiêm ngừa hiện tại trong ngành công nghiệp heo và vì thế không phát sinh thêm bất cứ chi phí về nhân công.

Theo Asian Pork

Naipet.com

Facebook Comments
Share.

Chat
1