Bệnh Viêm Gan Truyền Nhiễm Ở Chó – Infectious Canine Hepatitis (ICH)

0

1. Bệnh Viêm gan Truyền nhiễm ở chó ?

Là bệnh lây lan rất nhanh, do virus Canine Adenovirus-1 ( CAV-1 ), các loài chó hoang dã và chó chưa được tiêm vaccine CVA-1 đều có thể mắc bệnh, đặc biệt với chó dưới một năm tuổi. Bệnh không lây sang người.

2. Lây lan ra sao ?

Virus CAV-1 qua đường miệng, tiêu hóa xâm nhập mô bào hầu hết các cơ quan cơ thể của chó, dù chưa phát bệnh ( ủ bệnh ) nhưng thời gian nhiễm CAV-1 này đã có thể lây truyền sang chó khác qua các chất bài tiết : phân, nước tiểu và rớt dãi…Những con chó may mắn khỏi bệnh vẫn mang virus tới 9 tháng sau.

benh-viem-gan-truyen-nhiem-o-cho

Canine Adenovirus dưới kính hiển vi điện tử.

3. Triệu chứng thường thấy ?

Virus CAV-1 tấn công hủy hoại gan, thận và hệ tuần hoàn rồi nhanh chóng xâm nhập toàn bộ cơ thể. Chó kém ăn, bỏ ăn rồi chuyển sang hôn mê. Kỳ ủ bệnh từ 4-7 ngày.

Thể quá cấp tính, chó đột ngột bỏ ăn, ốm xỉu, tiêu chảy ra máu, suy sụp nhanh và tử vong chỉ vài giờ. Chó non thường chết mà chưa hề có triệu chứng gì đặc biệt.

Thể cấp tính : chó sốt (39.4 – 41.1oC), bỏ ăn, tiêu chảy và nôn ra máu. Chó thường co gập, quằn quại do những cơn đau dữ dội vùng bụng do sưng gan. Ánh sáng có thể kích thích mắt gây đau, viêm chảy nước măt rồi có rử ghèn. Có các điểm nốt xuất huyết dưới da, dễ thấy ở vùng da bụng. Niêm mạc mắt có màu vàng rồi toàn bộ da vàng như nghệ do chứng hoàng đản sắc tố mật tràn vào máu. Chó khó có thể qua khỏi một khi có triệu chứng vàng da.

Khoảng 25% số chó khỏi bệnh có mang di chứng mắt ” cùi nhãn” do đục thủy tinh thể, có thể tự khỏi sau vài ngày hoặc mang di chứng.

viem-gan-truyen-nhiem-tren-cho-1

 

Bệnh thường ghép với Bệnh Viêm khí quản-phế quản truyền nhiễm Kennel Cough kèm theo các triệu chứng hô hấp, ho khạc chảy dịch viêm mũi, mắt…

4. Chẩn đoán và điều trị ?

Qua các triệu chứng lâm sàng kể trên, làm test phân lập virus trong phòng thí nghiệm. Ở thể quá cấp tính hầu như không có cơ hội chữa trị, chó chết trong vòng vài giờ đến 2- 3 ngày sau đỏ bệnh.

Không có thuốc điều trị đặc hiệu. Chủ yếu điều trị theo triệu chứng: bù nước, cân bằng điện giải, truyền dịch đường glucose, lactated Ringer và các loại kháng sinh chống viêm nhiễm kế phát, vitamine, tăng chức năng gan thận, và chăm sóc theo chỉ định của các bác sỹ thú y.

5. Phòng bệnh và Kiểm dịch ra sao?

Chó phải được tiêm phòng vaccine phòng bệnh Viêm gan truyền nhiễm là loại vaccine nhược độc có chứa hốn hợp virus CAV-1 và CVA-2, phòng cả bệnh Viêm khí quản- phế quản truyền nhiễm Kennel Cough. Ký tự “H” trên các nhãn vaccine là chữ đầu của” Hepatitis để mọi người nhận biết dễ dàng.

Chó non phải được tiêm vaccine ngay từ 6-8 tuần tuổi rồi nhắc lại lúc 12 tuần tuổi. Hằng năm nhắc lại một lần.

Chó ốm hoặc nghi ốm bệnh, phải cách ly và kiểm soát vệ sịnh, tiêu độc chặt chẽ. Đặc biệt xử lý chất bài tiết, nước rửa chuồng, khu vực nuôi chó.

Cách ly theo dõi chó mới nhập về, chó mua phải có bảo đảm dã tiêm phòng vaccine đầy đủ theo quy trình. Không tập trung những con chó chưa tiêm phòng dịch trong các Dog show, Festival, Petshop, phải có khu điều trị bệnh truyền nhiễm riêng vơi đủ điều kiện sát trùng, vệ sinh.

_______________________________________________________________________________________

Bài Viết sau đây kỹ lưỡng hơn dành cho các bạn có chuyên môn
1.) Căn nguyên gây bệnh

Là bệnh lây lan rất nhanh, do virus Canine Adenovirus-1 ( CAV-1 ), các loài chó hoang dã và chó chưa được tiêm vaccine CVA-1 đều có thể mắc bệnh, đặc biệt với chó dưới một năm tuổi. Bệnh không lây sang người.
Bệnh viêm gan truyền nhiễm trên chó gây ra bởi canine adenovirus (CAV-1) có huyết thanh đồng nhất trên toàn thế giới, tương đồng miễn dịch với adenovirus trên người. CAV-1 có kháng nguyên khác biệt so với CAV-2 (loại được sản xuất vaccin cho bệnh hô hấp trên chó). Kháng nguyên của CAV-2 đã được phân lập từ ruột chó con bị tiêu chảy xuất huyết, từ những chó bị ho cũi chó (Kennel's disease) với dấu hiệu tiêu chảy. Giống như các adenovirus khác, CAV-1 có khả năng đề kháng trong môi trường bất hoạt, khả năng sống sót cao với các loại thuốc khử trùng và một số loại hóa chất, ổn định khi tiếp xúc với một tần số nhất định của bức xạ cực tím.

2.) Sinh bệnh học (phương thức lây lan)

Sau khi tiếp xúc miệng-mũi virus định vị tại hạch amidan, sau đó nó lây lan đến các hạch bạch huyết và hệ bạch huyết trước khi vào máu thông qua các ống lồng ngực. Nhiễm trùng huyết kéo dài 4-8 ngày sau khi nhiễm, sau đó virus xâm nhiễm nhanh chóng vào các mô và có mặt trong chất tiết của cơ thể, bao gồm nước bọt, nước tiểu và phân. Tế bào nhu mô gan, tế bào nội mô mạch máu của nhiều mô bao gồm hệ thống thần kinh trung ương là những vị trí virus định vị và gây nhiễm trùng và các bệnh tích trên các cơ quan này.
Các biến chứng thường liên quan đến sinh bệnh học của ICH, những chó suy nhược dễ dẫn đến tình trạng viêm bể thận do virus tấn công. Chảy máu nội mô (Disseminated intravascular coagulation – DIC) là một biến chứng thường xuyên của ICH và có thể gây ra các tổn thương trên tế bào nội mô, dẫn đến hoạt hóa các cơ chế đông máu, hoặc gan kém chức năng dẫn đến giảm tổng hợp các yếu tố đông máu ở gan.

viem-gan-truyen-nhiem-tren-cho

Canine Adenovirus dưới kính hiển vi điện tử.

3.) Kết quả lâm sàng

ICH là thường thấy nhất trên những chó nhỏ dưới 1 một năm tuổi, mặc dù chó chưa được tiêm chủng ở mọi lứa tuổi cũng có thể bị ảnh hưởng. Chó bị ảnh hưởng nghiêm trọng sẽ hấp hối và chết trong vài giờ sau khi xuất hiện các dấu hiệu lâm sàng.
Dấu hiệu lâm sàng ở giai đoạn đầu của nhiễm trùng bao gồm: tăng nhiệt độ trực tràng (39,4°C đến 41,1°C), tăng tần số hô hấp. Sốt có thể không còn, sưng hạch amidan thường kết hợp với viêm họng và viêm thanh quản, ho và có âm khan trên đường hô hấp. Thường thấy các nốt bạch huyết trên cổ lớn lên gây phù nề dưới da đầu và cổ. Đau bụng và gan thường rõ ràng trong các ca bệnh cấp, đốm xuất huyết và các vết bầm lan rộng dưới da, chảy máu cam và chảy máu tĩnh mạch cũng thường xảy ra. Vàng da không phổ biến trong gia đoạn cấp của ICH, nhưng nó được tìm thấy trong một số chó sống sót qua giai đoạn phát cấp tính của bệnh. Trướng bụng do sự tích tụ của chất lỏng (Bao gồm huyết thanh và máu) hoặc do xuất huyết nội. Dấu hiệu thần kinh trung ương bao gồm: ủ rũ, mất phương hướng, co giật, hôn mê hoặc hôn mê sâu trong giai đoạn cuối của bệnh. Chó bị ảnh hưởng nhẹ có thể phục hồi sau khi hết sốt, triệu chứng lâm sàng các biến chứng của ICH thường xuyên kéo dài 5-7 ngày trước khi giảm bớt. Phù giác mạc và viêm màng giữa của mắt thường xuất hiện khi các triệu chứng lâm sàng mất dần.

4.) Chẩn đoán

Chẩn đoán huyết thanh học sớm đối với ICH bao gồm giảm bạch cầu lymphô và bạch cầu trung tính, tăng bạch cầu trung tính và lympho bào xảy ra sau khi chó hồi phục hồi các biến chứng của bệnh. Protein huyết thanh thay đổi với α2¬-globulin gia tăng tạm thời và γ-globulin tăng chậm vào ngày thứ 7 sau khi tiêm phòng, đạt đỉnh điểm vào ngày thứ 21.

viem-gan-truyen-nhiem-tren-cho

Tăng mức độ alanine aminotransferase (ALT), aspartate aminotransferase và alkaline phosphatase và alkaline phosphatase phụ thuộc vào thời điểm lấy mẫu và mức độ hoại tử gan. Các enzyme này tiếp tục tăng cho đến ngày thứ 14 sau khi tiêm phòng, sau đó giảm dần, mặc dù nồng độ này có thể tăng đều đặn lại (nhận thấy trên những chó bị viêm gan mãn). Sự gia tăng ALT (có tầm quan trọng của chẩn đoán, nhằm đo lường mức độ hoại tử gan) thường không tương xứng so với sự gia tăng bilirubin huyết thanh, Sự chênh lệch này là điển hình cho ICH và khác biệt với hầu hết các nguyên nhân khác gây hoại tử gan lan rộng (quanh các tiểu mạch máu của tiểu thùy). Hạ đường huyết có thể được tìm thấy trên những chó trong giai đoạn cuối của căn bệnh này.
Đặc tính đông máu bất thường của DIC đễ dàng nhận thấy ở pha nhiễm trùng huyết của bệnh. Giảm tiểu cầu.
Protein (chủ yếu là albumin niệu) đánh giá mức độ tổn thương thận gây ra bởi virus và thường có thể được phát hiện trên phân tích ngẫu nhiên nước tiểu, bởi vì nồng độ lớn hơn 50mg/dL. Sự tăng tính thấm ở cầu thận có thể do virus định vị tại đó, trong giai đoạn đầu của nhiễm trùng.
Thảo luận kết quả xét nghiệm cho thấy chẩn đoán lâm sàng đối với ICH là phương tiện chính. Trước khi chết (không cần thiết cho điều trị), có thể thực hiện xét nghiệm huyết thanh, phân lập virus bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang, nhuộm virus tại các mẫu mô bệnh. Kiểm tra huyết thanh bao gồm phản ứng trung hòa virus, ngưng kết hồng cầu gián tiếp, kết hợp bổ thể, phản ứng kháng nguyên kháng thể và ELISA. Các xét nghiệm này thường cho thấy nồng độ kháng thể cao hơn sau khi bị nhiễm virus độc lực cao tương phản với vaccin MLV.
CAV-1 có thể dễ dàng phân lập vì nó đề kháng cao trong mội trường và dễ dàng nhân lên trong môi trường nuôi cấy tế bào của một số loài, bao gồm cả chó. Bệnh tích tế bào điển hình của adenovirus bao gồm kết tụ và ly giải tế bào một lớp. Khi hiện tượng nhiễm trùng huyết bắt đầu (vào ngày thứ 5 PI), CAV-1 có thể được nuôi cấy từ bất kỳ mô cơ thể hoặc hoặc chất tiết. Nuôi cấy virus từ gan chó thường rất khó, bởi vì arginase của gan ức chế virus sao chép nucleotide, virus không thể phân lập từ gan quá 10 ngày PI, ngay cả trên những chó bị viêm gan mãn, có lẽ bởi vì độ trễ của virus. Thận là cơ quan virus khu trú và CAV-1 có thể được phân lập từ nước tiểu ít nhất 6-9 tháng sau khi nhiễm bệnh đầu tiên.

5.) Bệnh lý

Khám tử, kiểm tra sinh thiết mô từ những chó bệnh có thể chẩn đoán ICH. Chó chết trong giai đoạn cấp tính của bệnh thường thân thịt còn tốt, phù và xuất huyết các hạch bạch huyết trên bề mặt và mô dưới da cổ. Xoang bụng có thể chứa chất lỏng màu sắc thay đổi từ trong đến đỏ tươi, xuất huyết và tụ huyết trên tất cả bề mặt màng thanh dịch. Gan sưng to, sậm màu, vết lốm đốm trên bề mặt và có dịch, fibrin thường hiện diện trên bề mặt gan và trong các vết nứt gian thùy. Điển hình là túi mật dầy và phù nề và có màu đục mờ màu xanh-trắng. Fibrin có thể lắng đọng trên bề mặt màng thanh dịch xoang bụng. Xuất huyết ống tiêu hóa , lách sưng và phình ra trên bề mặt cắt.
ICH gây bệnh tích trên các cơ quan khác như: xuất huyết và nhồi huyết trên vỏ thận, các hạch bạch huyết phế quản xuất huyết và phù nề. Xuất huyết rải rác trên não ở phần não giữa và đuôi cuống não. Tổn thương trên mắt được đặc trưng bởi đục giác mạc và gây tích dịch.
Thay đổi mô bệnh học trong gan của những chó chết vì bệnh viêm gan cấp tính bao gồm hoại tử lan rộng khắp tiểu thùy gan. Trên những chó hoại tử gan nhẹ, mức độ hoại tử các mô gan được xác định trong các tiểu thùy gan (hình 4-4).
Thay đổi mô học trên diện rộng xảy ra ở các cơ quan khác là kết quả của chấn thương nội mạc gây ra bởi virus. Thể vùi ban đầu được tìm thấy trong các tiểu cầu thận nhưng sau đó được tìm thấy trong nội mạc mạch máu hình ống của thận, có sự tập trung của bạch cầu trung tính và các tế bào đơn nhân trong vùng vỏ và tủy thận, những thay đổi nhẹ thường tiến triển đến xơ hóa mô kẽ. Cơ quan lympho bao gồm các hạch bạch huyết, amidan và lách bị xung huyết với sự xâm nhập của bạch cầu trung tính và tế bào đơn nhân, các nang bạch huyết phân tán quanh vùng hoại tử. thể vùi trong nhân có thể được tìm thấy trong các tế bào nội mô mạch máu và các mô bào, các vách ngăn phế nang và quanh phế quản phổi dày lên với sự tích lũy các lympho, Phế nang chứa đầy dịch tiết bao gồm hồng cầu, fibrin và chất lỏng.
Thay đổi trên mắt được đặc trưng bởi viêm mống mắt và cơ mí mắt có u hạt với sự gián đoạn nội mô giác mạc, giác mạc phù nề. Mống và mí mắt bị nghẽn với các tế bào viêm.

viem-gan-truyen-nhiem-tren-cho1

Thể vùi được thấy trong ICH đã được phân loại như Cowdry type A và cả mô ngoại bì và mô mesodermal (chúng có nhiều ở gan), điều này làm cho chúng trở thành mô hợp lý cho xem kính, chúng thu được bằng sinh thiết hoặc khám tử (Hình 4-5). Ban đầu phì đại nhân các tế bào theo sau là hệ thống nhiễm sắc đọng lại phần rìa (tạo thành trung tâm), hạt nhân còn lại được bao quanh bởi một vầng sáng của nhiễm sắc thể. Các thể vùi ban đầu là ưa acid nhưng trở nên ưa kiềm như bám rìa nhiễm sắc thể. Cần chú ý thể vùi trong tế bào gan do ICH và do các bệnh virus khác.

6.) Điều trị

Theo dõi sự tiến triển của triệu chứng lâm sàng. Điều trị hỗ trợ cho đến khi các tế bào gan hồi phục. Thông ống tĩnh mạch (catheter) ngay lập tức đối với chó bị ảnh hưởng nghiêm trọng với bệnh. Liệu pháp truyền dịch với dung dịch Lactate Ringer’s sẽ bù chất điện giải do nôn mửa, tiêu chảy và hỗ trợ trong việc làm giảm nhiệt độ cơ thể. Trên những chó quá suy nhược phải được duy trì lượng chất lỏng hằng ngày (45 ml/kg) bằng đường tiêm.
Hạ đường huyết gây ra tình trạng hôn mê, do đó tiêm tĩnh mạch glucose 50% (0,5 ml/kg) nên được đưa ra trong khoảng thời gian 5 phút/lần. Hạ đường huyết có thể sẽ tái diễn nếu không duy trì truyền liên tục glucose ưu trương, truyền glucose ưu trương nên được tiếp tục với tốc độ không lớn hơn 0,5-0,9gr/kg /giờ mới thấy hiệu quả. Điều trị để giảm nồng độ amoniac trong máu hướng vào việc giảm dị hóa protein của vi khuẩn ruột già và tái hấp thu amoniac trong ống thận, sản xuất amoniac từ sự thoái hóa protein trong ruột có thể được giảm bằng cách giảm số lượng protein và ngăn chặn xuất huyết tiêu hóa. Ruột già có thể được thụt rửa bằng cách làm sạch và axit hóa nhằm làm giảm ứ ruột và làm chậm sự hấp thụ amoniac. Quá trình axit hóa ruột cũng có thể đạt được bằng cách cho ăn, uống lactulose đối với những chó không ói mửa. Tái hấp thu amoniac ở thận có thể được giảm bằng cách dùng thuốc kali hóa (bằng miệng) và cân bằng chuyển hóa kiềm. Axit hóa nước tiểu với acid ascorbic (một acid hoá không độc hại) có thể làm giảm đáng kể amoniac tái hấp thu qua thận.

7.) Phòng chống

Miễn dịch mẹ truyền
Thời gian miễn dịch thụ động nhận được trong chó con phụ thuộc vào nồng độ kháng thể của chó mẹ. Tiêm chủng ICH thường thành công khi kháng thể mẹ truyền (maternally derived antibody – MDA) có nồng độ giảm xuống dưới 100 (có thể xảy ra bắt đầu từ 5-7 tuần tuổi). Mức độ ICH MDAs trong chó con mới sinh giảm không đáng kể với nồng độ 14 đến 16 tuần.
Tiêm phòng
Vaccin MLV CAV-1 đã được ngưng trong hầu hết các nước trên thế giới để kháng nguyên MLV CAV-2 có mặt trong hầu như tất cả các thị trường vaccin.
Tiêm vaccin CAV-2, loại đã được phát triển như là một sự thay thế trong công tác phòng chống ICH. Vaccin CAV-2 biến đổi hiếm khi gây bệnh ở mắt hoặc thận khi sử dụng các con đường khác nhau (tiêm bắp, tiêm dưới da, hoặc mũi), mặc dù virus có thể khu trú và bài thảy qua đường hô hấp trên. Khi thực nghiệm tiêm vào lớp giữa nhãn cầu, virus vaccin tăng sinh và gây tổn thương mắt tương tự như khi chủng CAV-1. Khi được hoặc tiêm tĩnh mạch hoặc xông qua đường mũi, vaccine CAV-2 MLV có thể gây bệnh hô hấp nhẹ với ho và sưng hạch amidan, mặc dù đã được chứng minh là có biểu hiện lâm sàng và tự hồi phục. Tuy nhiên, để phòng ngừa chung, thực hiện cung cấp vaccin cẩn thận để tránh vô tình gây khí dung vaccin tiêm trong khi sử dụng.
Chương trình vaccin đề nghị để bảo vệ chống lại ICH bao gồm ít nhất hai liều (chó trên 3 đến 4 tuần) tại 8 đến 10 và 12 đến 14 tuần tuổi. Điều này thường được thực hiện thông qua sự kết hợp của kháng nguyên virus ICH với canine distemper virus và parvovirus. Tiêm chủng thường xuyên hơn trong các khu vực có tỷ lệ nhiễm cao. Đối với liều nhắc lại, vaccin MLV có thể được tiêm mỗi 3 năm/lần như được chỉ định bởi các nghiên cứu. Tiêm chủng hàng năm (như việc thực hiện trước đây) là không cần thiết vì quá trình bảo vệ lâu dài của vaccin MLV.

Naipet.com

Facebook Comments
Share.

Chat
1