1. NGUYÊN NHÂN
Là do virus thuộc thành viên của Papillomavirus (PV) với kích thước rất nhỏ (30-60 nm), là virus không có vỏ envelope với hai mươi mặt đối xứng và bộ gen vòng AND. Chúng có cùng phân loại với polyomaviruses, trong gia đình Papovaviridae. Chúng thiếu một lớp vỏ envelope. PV là phổ biến trong tự nhiên và lây nhiễm sang nhiều loài động vật có vú và chim. Chúng gây bệnh với vật chủ rất đặc hiệu, và sự sao chép của chúng được liên kết chặt chẽ với tế bào vật chủ chuyên biệt. Ví dụ, thực hiện cấy u nhú ở miệng chó (COPV – canine oral papillomavirus) vào cho mèo, chuột, chuột, chuột lang, thỏ và động vật linh trưởng (không phải là con người) đã cho thấy thất bại trong việc sản xuất u nhúPV ở động vật gây ra trên da lành tính và sự gia tăng niêm mạc thông thường có sự tự giới hạn và hiếm khi tiến triển thành các khối u ác tính. Mặt khác PV ở người (HPV – human papillomavirus ) , tạo ra một nhiễm trùng phạm vi rộng, một trong số đó là sống hội sinh, trong khi một số khác gây ra biến đổi ung thư, đặc biệt là trên các chất màng nhầy. Hiện nay đã phân lập được 7 chủng trên chó và 2 chủng trên mèo.
2. DỊCH TỂ HỌC
HPV xâm nhập vào trong biểu mô vảy có thể gây nhiễm trùng tiềm ẩn, không có triệu chứng lâm sàng và các bằng chứng vi thể của bệnh. Khi nhiễm trùng được thể hiện, các phân tử gây truyền nhiễm đòi hỏi phải thâm nhập vào các tế bào trong lớp đáy, trong nhiều trường hợp gây phá vỡ biểu mô. Tuy nhiên, trong các trường hợp , nhiễm trùng đầu tiên là kết quả của một giai đoạn ủ bệnh của virus trước đó, trong đó gen của virus trải qua sự sao chép như các yếu tố độc lập không phụ thuộc di truyền nhiễm sắc thể.
Phương pháp cận lâm sàng của bệnh PV ở chó và mèo là không chắc chắn và không phổ biến. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu huyết thanh, 49 7,4% đến 50,2% con chó khỏe mạnh đã có kháng thể chống lại COPV và/hoặc CdPV3. Đối với triệu chứng lâm sàng được biểu hiện, PV phải vượt qua các phản ứng miễn dịch của vật chủ để sao chép, vì vậy tầm quan trọng trong nhiễm trùng PV là trên những thú bệnh suy giảm miễn dịch. Khả năng miễn dịch vốn có, cho thấy khuynh hướng giống rõ ràng cho sự phát triển của một điều kiện cụ thể của PV liên quan đến chó, cụ thể là mảng sắc tố, đã được thành lập ở chó pugs. Tương tự như vậy, chó coocker spaniels trưởng thành và chó Kerry blue terriers có thể dễ bị papillomas da.
Cải tiến kỹ thuật phát hiện đã cho phép phát hiện không chỉ các đặc tính của động vật ăn thịt PV mà còn là phát hiện sự mới lạ của acid nucleic trong một loạt các tổn thương da như tại chỗ và xâm lấn tế bào vảy ung thư biểu mô (SCCs – squamous cell carcinomas). Tuy nhiên, với xét nghiệm PCR hiện nay có thể phát hiện một bản sao gen PV trong số 100 tế bào sừng. Trong thực tế, quá ít virus để có thể có khả năng gây bất kỳ ảnh hưởng đến sự phát triển tân sinh trong các mô chứa chấp là rất đáng nghi ngờ, phải giải thích rất cẩn thận bất kỳ kết quả dương tính thu được với các xét nghiệm như vậy. Ví dụ, sử dụng phát hiện PCR, phát hiện FdPV2 đã được tìm thấy trong da của 52% mèo khỏe mạnh về mặt lâm sàng, bất kể tuổi tác, giới tính của chúng hoặc bị nhiễm FIV.
Ngược lại, kết quả dương tính thu được với kỹ thuật cũ, như hóa mô miễn dịch (IHC – immunohistochemistry) là có ý nghĩa hơn cho đến nay. Xét nghiệm dương tính chỉ khi một số tiền chất proteincủa capsid virus có mặt trong mẫu. Do đó, khi kết quả dương, các xét nghiệm IHC, thể hiện không chỉ sự hiện diện của virus mà còn cho thấy hoạt độngsao chép của nó, với nhiều khả năng là cả biểu hiện lâm sàng. Kết quả dương tính IHC đã được chứng minh trong mụn cóc chó, mảng sắc tố của loài chó, mảng virus, và mèo BISC. Ngoài ra,DNA PV đã được chứng minh là có mặt ở hầu hết (17/20) da mèo có SCC và hiếm (1/20) đối với SCC ởmiệng.
3. SINH BỆNH HỌC
Chu trình sống của PV thường được giới hạn trong các lớp biểu bì và biểu mô và liên kết chặt chẽ với các tế bào biểu mô khác biệt. Gen HPV sớm (gen E) được thể hiện ở cấp độ đáy và ở trên đáy của các lớp biểu bì, trong khi gen muộn (L1 và L2) được thể hiện trong các lớp tế bào gai và tế bào hạt. Sau khi nhiễm bệnh, tăng sản trong tầng gai xảy ra, và sự gia tăng của biểu mô (gai, tăng sừng, với sự hình thành mụn cóc) trở thành triệu chứng lâm sàng rõ ràng khi 4-6 tuần.
Mụn cóc thoái hóa tự phát là quá trình bình thường, xảy ra sau 6-8 tuần. Mụn cóc thoái hóa thường được quan sát thấy ở những con chó con, trong khi đó nhiễm trùng PV dai dẳng đã được báo cáo chủ yếu ở chó trưởng thành. Các tổn thương trên mèo con 6-7 tháng tuổi đã được báo cáo, nhưng hầu hết các trường hợp là ở mèo 6-13 tuổi. Suy giảm miễn dịch có liên quan không chỉ với tăng cơ hội biểu hiện lâm sàng mà còn với nhiễm trùng dai dẳng và chuyển sang ung thư.
Sự hiện diện của kháng thể trung hòa ở chó sau khi mụn cóc suy thoái từ lâu đã được công nhận. Các kháng thể ngăn ngừa tái nhiễm PV có trong hầu hết các con chó, nhưng không làm thoái hóa của các khối u đã hình thành. Điều này cho thấy sự suy thoái các khối u có liên quan đến một phản ứng trung gian tế bào. Giả thuyết này được hỗ trợ bởi sự hiện diện của lympho thâm nhập trong hầu hết các mụn cóc suy thoái ở chó và nhiều loài khác.
Các động vật ăn thịt cóPV mang gen gây ung thư (E6, E7, E5), nhưng cuối cùng biểu hiện của các gen này có thể phụ thuộc vào sự tương tác với các phản ứng miễn dịch vật chủ. Goldschmidt và đồng nghiệp, đã cô lập từ CdPV2 của giống chó săn beagle bị suy giảm miễn dịch.
4. PHÁT HIỆN LÂM SÀNG
Chó
Thông thường mụn cóc xảy ra ở chó con (Hình 1). Niêm mạc miệng chủ yếu bị ảnh hưởng bởi điều kiện COPV-liên kết. Mí mắt, môi, thực quản, và da lông cũng có thể bị ảnh hưởng thứ phát. Thoái hóa thường xảy ra trong vòng một vài tuần. Da chó trưởng thành cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các hình thức khác của papillomatosis, đặc biệt là đệm bàn chân và phần rìa da. Kerry blue terriers và spaniels cocker có thể thường gặp PV, giống chó pug được coi là dễ mắc các mảng bám. Tobler và đồng nghiệp đã chứng minh rằng bốn pugs chịu ảnh hưởng đã bị nhiễm bệnh do cùng PV, cụ thể là CdPV4. Các PV trên chó, cụ thể là CdPV3, CPV5, và CdPV7. Papillomas đảo ngược là mụn cóc phát triển đi xuống vào trong da. Kết quả là phát triển nốt sần mịn, thường là 1-2 cm đường kính, với một lỗ trung tâm chứa đầy chất sừng (Hình 2). Chúng thường xảy ra trên bụng và có thể đơn độc hay nhiều. Sự suy thoái tự phát là không phổ biến, và phẫu thuật là lựa chọn điều trị.
Mèo
Sự xuất hiện thường thấy trên mèo, với PV cảm ứng các tổn thương, được gọi là mảng bám virus, không phải là điển hình của papillomas thấy ở động vật nuôi khác. Mảng bám có thể có màu trắng hoặc sắc tố và có vảy và nhớt khi chạm vào. Các tổn thương thường cục bộ ở đầu, cổ, lưng một phần của ngực, và bụng. Sarcoids mèo là các tổn thương hiếm xảy ra trên mũi, ngón chân, môi, loa tai, và đuôi. Mèo thông thường còn nhỏ, và sống trời sống trong một môi trường nông thôn (thường tiếp xúc với gia súc) có xu hướng thường xuyên bị ảnh hưởng hơn.
5. CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán papillomatosis được dựa trên dịch tễ học và tổng số xuất hiện của các khối u. Một sinh thiết với đầy đủ độ dày của toàn bộ tổn thương cả vùng bình thường lân cận cũng cần được thực hiện và xử lý cho mô bệnh học, IHC, hoặc kiểm tra kính hiển vi điện tử. Phương pháp xét nghiệm PCR có thể được thực hiện để chứng minh sự hiện diện của DNA PVtrong các tổn thương, cũng có thể được sử dụng để xác định chủng loại PV.
6. ĐIỀU TRỊ
Trong thực tế, sự suy thoái tự phát của hầu hết các u nhú ở miệng chó đã được chú ý. Thoái lui của các tổn thương thường xảy ra trong vòng 3 tháng mà không cần điều trị. Sự bền bỉ (sau hơn 4 tháng) sẽ thúc đẩy việc đánh giá lại tình trạng miễn dịch của con chó bị ảnh hưởng. Phẫu thuật cắt bỏ sẽ được xem xét khi các tổn thương có ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt của thú bệnh. Tuy nhiên sự can thiệp phẫu thuật như vậy đã được báo cáo có liên quan đến nhiễm trùng tiềm ẩn và tăng tái phát. Phương pháp điều trị với interferon (IFN-α hoặc IFN-ω) đã được đề xuất bởi một số tác giả, nhưng các nghiên cứu rộng lớn chưa bao giờ được thực hiện. Tác giả cho rằng IFNs có thể đẩy nhanh thoái hóa nhưng không có khả năng làm teo khối u lại.Tuy nhiên, chưa từng có thuốc nào được đánh giá trong điều trị mụn cóc chó. Duy nhất một nghiên cứu thú y về việc sử dụng thuốc trong nhiễm PV trên động vật đã được điều trị sarcoids là ở ngựa. Và nó chứng minh một số hiệu quả. Trong một báo cáo, một con chó với u nhú ở miệng hoặc da được điều trị với azithromycin (10 mg / kg đường uống mỗi 24 giờ trong 10 ngày) và cải thiện lâm sàng là thấy rõ so với những con chó không được điều trị.
7. PHÒNG BỆNH
Bảo vệ chống lại virus với COPV đã được thực hiện bằng cách liên tục chủng ngừa thông qua chuyển giao DNA là một plasmid mã hóa protein capsid L1 chính của COPV hoặc protein đột biến E1 hoặc E2 đến các vị trí da và niêm mạc miệng của chó giống beagle. Chuỗi gien codon tối ưu hóa E1 cung cấp sự bảo vệ đầy đủ sau khi tiêm ADN cho chó beagle với COPV. Cả hai đáp ứng miễn dịch trung gian tế bào và miễn dịch dịch thể đã được phát hiện. Tuy nhiên vaccine thương mại là không có sẵn.
Naipet.com