Bệnh Chlamydiosis được phát hiện vào cuối thế kỷ 19, lúc đó mang tên “sốt vẹt” (Psittacosis). Bệnh này bắt nguồn từ những con vẹt sang người mà còn lây nhiễm cho khoảng 130 loài chim, đặc biệt là những loài chim đã thuần hóa chăn nuôi ở gia đình như gà, vịt.
Bệnh chủ yếu phát ra ở gia cầm non với triệu chứng viêm mắt và tiêu chảy. Ở gia cầm lớn thường nhiễm bệnh ở thể ẩn tính.
I. ĐỘNG VẬT CẢM THỤ
Hầu hết các loại gia cầm đều bị mẫn cảm nhiễm. Bệnh lây nhiễm sang cả người, đặc biệt ở những nhười chế biến lông vũ, chế biến vịt xuất khẩu và cả những cán bộ thú ý khi làm công tác tiêm phòng, kiểm soát sát sinh và hướng dẫn chế biến thịt và lông vịt xuất khẩu.
II. NGUYÊN NHÂN
Bệnh do vi khuẩn Chlamydia có kích thước rất nhỏ (nhỏ hơn virus và lớn hơn vi khuẩn) ký sinh bên trong tế bào gây nên. Vi khuẩn chỉ sản sinh trong tế bào sống (phôi gà, chuột), vi khuẩn truyền qua trứng. Vi khuẩn thường gây bệnh ở gia cầm con. Vi khuẩn có sức đề kháng kém, ở nhiệt độ bình thường nó có thể tồn tại 1-5 tuần. Ở nhiệt độ 56oC vi khuẩn bị tiêu diệt trong 5 phút. Các thuốc sát trùng như Phenol 0,5% hoặc Formalin 0,1% đều tiêu diệt được vi khuẩn trong 10 phút.
III. CON ĐƯỜNG TRUYỀN LÂY
Truyền lây qua trứng từ mẹ sang hoặc từ môi trường chuồng trại nhiễm mần bệnh vào vỏ trứng. Từ vỏ trứng mần bệnhvào phôi.
Lây nhiễm do tiếp xúc giữa con bệnh và con khỏe (do vi khuẩn tồn tại trong phân, dịch mũi, dịch rỉ viêm ở kết mạc mắt thải vào thức ăn, nước uống trong chuồng trại).
Lây nhiễm qua da bị sây sát do vật cứng ở chuồng trại hay do rận, rệp, mạt và muỗi cắn.
IV. TRIỆU CHỨNG
Sau khi nhiễm trùng, vi khuẩn xâm nhập vào tế bào bạch cầu, ở đó chúng tăng sinh và gây nhiễm trùng cho các cơ quan nội tạng khác, đặc biệt là gan, lách, thận.
Triệu chứng ở gà:
Giảm trọng lượng, bỏ ăn.
Phân ỉa chảy có chất nhầy màu xanh vàng.
Gà đẻ giảm tỷ lệ trứng hoặc ngừng hẳn một thời gian sau mới hồi phục.
Tỷ lệ chết từ 10-30% tùy thuộc vào các chủng Chlamydia pisttaci gây bệnh.
Triệu chứng trên vịt con:
Viêm kết nạc mắt có mủ, dịch viêm chảy ra từ mắt làm dính khô vây xung quanh mắt. Đôi khi vịt bị mù do hai mí mắt dính vào nhau.
Vịt yếu và tiêu chảy, phân màu xanh xám.
Tỷ lệ chết có thể tới 30%.
Bệnh thường ghép với Salmonella, P. anatipestifer, Septicaemia hoặc viêm gan siêu vi trùng. Trong trường hợp đó bệnh sẽ nguy hiểm hơn.
Triệu chứng trên bồ câu và vẹt:
Bỏ ăn, tiêu chảy.
Viêm kết mạc, sưng mí mắt và xoang mũi.
Thở khó (do xoang mũi viêm, dịch chứa đầy).
V. MỔ KHÁM BỆNH TÍCH
Ở trên gà:
Sưng huyết đỏ ở phổi.
Xoang ngực cũng như xoang bao tim có dịch rỉ viêm fibrin màu vàng.
Túi khí viêm chứa nhiều dịch rỉ fibrin.
Lách sưng to, mền.
Trên gan có phủ lớp màng fibrin.
Ở trên vịt:
Bệnh tích giống trên gà nhưng có thêm: Cơ ngực bị teo; viêm khớp móng chân; vịt già có gan có những đám hoại tử trắng với kích thước khác nhau.
Ở trên bồ câu và vẹt giống như ở gà và vịt.
VI. CHUẨN ĐOÁN
Dựa trên triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học.
Lấy bệnh phẩm gan, lách, tim nhuộm Giemas. Ta thấy những đám vi khuẩn Chlamydia trong tế bào.
Làm phẩnứng kết hợp bổ thể (CFT) để phát hiện kháng thể trong huyết thanh những gia cầm khỏi bệnh.
Kiểm tra kháng thể huỳnh quang từ dử mắt bị viêm kết mạc là một phương pháp chuẩn đoán nhanh.
Chuẩn đoán phân biệt với các bệnh Salmonellosis, Panatipestifer cũng gây tiêu chảy nhưng không viêm mắt.
VII. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH
Phòng bệnh
Tránh nuôi chung gia cầm nhỏ với gia cầm lớn (vì gia cầm già thường mang mần bệnh và truyền lây cho gia cầm con).
Phải làm công tác vệ sinh thích hợp sau mỗi ở dịch.
Trước khi nhập đàn phải kiểm tra huyết thanh học của dần gà nhâp.
Dùng kháng sinh trộn vào thức ăn hay nước uống để phòng ngừa. Thuốc có tác dụng tôt là Chlotetracyclin, Oxytetracyclin, Chloramphenicol, Dynamutillin, Tiamulin, Inoxyl, và các thuốc trong nhóm Macrolid (Tylan, Suanovil). Liều dùng và quy trình phòng như trong bệnh bạch lỵ, thương hàn và CRD gia cầm.
Trị bệnh
Dùng một trong các loại thuốc kháng sinh tổng hợp như Chlotetrasol, Neodexin, Neocyclin, Tylo PC tiêm với liều lượng và liều trình như trong điều trị bệnh thương hàn E.coli hay bạch lỵ gia cầm.
Nguồn tin: (Theo Sách hỏi đáp bệnh về gia cầm)