Bệnh dịch hạch ở chó là 1 căn bệnh truyền nhiễm rất mãnh liệt, chủ yếu là ở chó non. Những con chó già tuổi cũng dễ bị mắc bệnh dịch hạnh. Ngoài ra bệnh dịch hạch còn lây truyền sang cả mèo và sang cả các động vật ăn thịt (chồn hôi, thuỷ thắt (con rái cá nâu – ND), chó núi, linh cẩu vằn, chó sói, cáo v.v…).
Tác nhân gây ra bệnh dịch hạch là virus. Bệnh dịch hạch lây truyền qua đường hít thở (hô hấp – ND) và đường tiêu hoá. Sau khi lọt vào cơ thể virus cụ chăm sóc, thức ăn, ôi thiu Là nơi ở và đệm đã có chó ốm ở và nằm hoặc có thể do người, do các phương tiện giao thông.
Từ lúc bị lây bệnh đến lúc xuất hiện các dấu hiệu đầu tiên của bệnh là phải trải qua 1 thời gian ủ bệnh. Giai đoạn ủ bệnh kéo dài từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 21. Trong thời gian này chó vẫn khoe mạnh nhưng đã có thể truyền bệnh sang các con chó khác. Chó đã bị mắc bệnh dịch hạch thì trước 3 tháng trong cơ thể có virus và có thể tủyền bệnh sang những con chó khác.
Các dấu hiệu của bệnh: Khi chó mới bị mắc bệnh dịch hạch thì rất khó để phát hiện. Những dấu hiệu đầu tiên của bệnh là: chó hơi khó chịu, uể oải, mệt nhẹ, lông xù lên, ăn kém, thỉnh thoảng nôn mửa, có vẻ chối từ công việc, niêm mạc mắt … mồm đỏ lên, nước mắt và nước mũi chảy ra nhưng không nhiều, hơi bị đi tháo dạ.
Những dấu hiệu này có thể thể hiện ở những con chó này thì mãnh liệt hơn nhưng ở những con chó khác thì lại yếu hơn. Khi vừa mới bắt đầu bị mắc bệnh, nhiệt độ cơ thể của chó tăng lên đến 39,5oC – 40 oC, nhiêệ độ như vậy kéo dài trong 2 đến 3 ngày liền, sau đó dần dần nhiệt độ hạ xuống mức bình thường.
Đối với những con chó khoẻ thì đến đây ta có thể nói là đã kết thúc bệnh tật và dần dần hồi phục là sức khoẻ, nhưng đối với những con chó yếu thì sức khoẻ bề ngoài tưởng là bình phục nhưng nhiệt độ lại bỗng dưng tăng lên đến 40oC – 41oC và sự thương tổn các niêm mạc lại trầm trọng hơn. Nước mũi chảy ra nhiều, biến thành mủ và có màu sắc vàng – xanh, 2 mí mắt khép lại, chó sợ ánh sáng, đôi khi giác mạc mắt vẩn đục. Niêm mạc mũi đỏ lên, phù, nước mũi khô lại và nứt ra. Chó hắt hơi, mũi cọ vào chân, hay liếm mép. Sau đó nước mũi lại chảy ra, lúc đầu trong, sau đó là chất mủ. Nước mũi chảy ra bịt kín các ngách mũi, đóng thành vảy xung quanh vành mũi làm cho chó rất khó thở.
Nếu bệnh tiến triển theo chiều hướng nặng thêm thì chó sẽ bị ho. Lúc đầu chó ho khan, đau cổ, sau đó ho ẩm và có đờm. Khi chó bị thương tổn đường hô hấp sâu thì chó sẽ bị viêm phế quản – phổi, nhịp thở khoảng từ 60 – 80 trong 1 phút, nước mủ từ mũi chảy ra, có màu xám – vàng – xanh và mùi rất khó chịu. Chó ho đau đơn, 2 má sưng to lên, đi lại rất khó khăn, nằm rên, không ăn uống gì. Khi bị bệnh dịch hạch chó đang bị táo bón cũng nhanh chóng chuyển sang tình trạng đi tháo dạ. Phần lớn các trường hợp bệnh đau dạ dày – ruột lại tiến triển như bị viêm dạ dày – ruột rất nặng và thường là chó bị chết.
Lúc bệnh ở thời điểm cao độ hoặc lúc trạng thái cơ thể đã bắt đầu khá lên thì xuất hiện sự thương tổn hệ thần kinh: chó khó chịu, hay sợ hãi, sự cảm giác giảm sút hoặc sự kích thích các cơn co giật của các nhóm cơ khác nhau tăng lên. Thông thường các cơn đau thần kinh kết thúc bằng các được cắt các cơ quan riêng biệt, tức là ở chó có thể xuất hiện sự rối loạn chuyển động, hoặc bị mù, bị điếc, hoặc mất cảm giác khứu giác, sa lưỡi, tứ chi và đuôi bị bại liệt. Bệnh dịch hạch có thể có dạng rất dễ nhận ra dấu hiệu của bệnh, ví dụ như bệnh đau dạ dày – ruột, bệnh thuộc về các cơ quan hô hấp hoặc bệnh thuộc về hệ thống thần kinh trung ương.
CHỐNG BỆNH DỊCH HẠCH Ở CHÓ
Cần phòng cho chó tránh khỏi bệnh truyền nhiễm (virus bệnh dịch hạch). Nuôi dưỡng chó nghiệp vụ ở những nơi kín, không cho tiếp xúc với chó lạ, mèo lạ hoặc các động vật khác dễ bị mắc bệnh dịch hạch.
Hàng năm các bộ phận thú y chuyên khoa phải đặt ra thời gian tiêm phòng cho chó để chống bệnh dịch hạch. Có thể tiêm phòng dịch cho chó con ngay từ khi chúng bước sang tháng tuổi thứ 3.
Phải đặc biệt quan tâm đến những con chó gầy yếu và bị rối loạn hệ thần kinh mặc dù không đáng kể, phải xem xét kỹ chúng như những con vật có khả năng truyền virus.
Cần giúp cơ thể chó chống lại các bệnh truyền nhiễm.
Khi phát hiện thấy các dấu hiệu của bệnh dịch hạch hoặc nghi ngờ một số con chó đã mắc bệnh dịch hạch thì phải mau chóng tách chúng ra khỏi các con chó đang khỏe và nuôi cách ly. Những con chó con thì phải theo dõi và đo nhiệt đô cho chúng hàng ngày vào buổi sáng và buổi chiều. Sau mỗi lần đo nhiệt độ cho chó cần sát trùng bằng dung dịch natri hydro
Tất cả các con chó có nhiệt độ cơ thể tăng thì phải cách ly chúng, mọi hoạt động tập luyện phải ngưng lại và tiến hành tẩy uế chỗ ở của chó một cách cẩn thận. Khí cụ phải sát trùng bằng dung dịch natri hydroxit 2%. Dụng cụ cho ăn và cho uống sau mỗi lần sử dụng phải sát trùng bằng nước sôi.
Khi xuất hiện bệnh dịch hạch phải cho chó ăn tốt hơn, cho chó ở nơi sạch sẽ, khô ráo và có đệm dày. Việc điều trị những con chó bệnh cần tiến hành riêng biệt từng con và phải dưới sự chỉ dẫn của chuyên gia thú y.
——————————————————————————————————————————————–
Bài Viết 2
1. Nguyên nhân gây bệnh
Yersinia peptis thuộc giống Yersiania họ Enterobacteriaceae được phân lập lần đầu tiên bởi A. Yersin năm 1894. Vi khuẩn dịch hạch là một trực khuẩn ngắn, Gram âm, bắt màu đậm ở hai đầu nhất là khi nhuộm Wayson hay xanh methylene. Tạo vỏ trong bệnh phẩm hoặc khi nuôi cấy ở 37 độ C, không tạo vỏ khi nuôi cấy ở 28 độ C. Không sinh nha bào, không di động.
Vi khuẩn không hoại sinh, nhạy cảm với môi trường khô và nhiệt độ trên 40 độ C. Tuy nhiên, nó có thể tồn tại vài tuần đến vài tháng trong xác động vật bị nhiễm bệnh, trong đất bị ô nhiễm nó có thể tồn tại ít nhất 24 ngày ở điều kiện tự nhiên và 40 tuần ở môi trường thí nghiệm. Ở 2,17 độ C hoặc môi trường đông lạnh chúng có thể tồn tại nhiều năm.
2. Dịch tể học
Bệnh dịch hạch là một bệnh nhiễm trùng ở động vật gặm nhấm, có thể rất nguy hiểm và là chỉ tiêu kiểm dịch động vật. Bệnh thường xảy ra trên các loài gặm nhấm tuy nhiên gần như các loài động vật có vú đều có thể nhiễm Yersinia peptis.
Ở người, nhiễm trùng thường xảy ra do tiếp xúc khi thực hiện kiểm dịch liên quan đến động vật gặm nhấm hoặc bị nhiễm do trong khu vực có động vật nhiễm bệnh. Hơn 80 loài bọ chét trong tự nhiên được tìm thấy bị nhiễm Y. pestis và ít nhất 28 loài đã được xác định như là một vector truyền lây.
Sự phân bố của bệnh dịch hạch trên thế giới
Bệnh thường xuất hiện ở những nơi có khí hậu khô cằn, vùng khí hậu lạnh tiếp giáp sa mạc, chúng thường tập trung ở các hồ chứa, nguồn nước. Càng lên cao nguy cơ của dịch bệnh càng giảm dần. Tỉ lệ mắc bệnh dịch hạch của con người có liên quan đến lượng mưa hàng năm ở khu vực đó. Sự ấm lên của khí hậu toàn cầu có thể làm biến đổi sự phân bố của bệnh dịch hạch, sự hiện diện của mầm bệnh sẽ di chuyển dần lên vùng xa xích đạo.
Sự truyền lây Y. pestis giữa các vật chủ yếu xảy ra do bọ chét cắn, ngoài ra bệnh có thể truyền thông qua tiếp xúc khi có vết thương, hoặc có thể do hít phải các chất bài tiết từ các động vật bị dịch hạch thể phổi. Ngược lại, chó mèo thường mắc bệnh do ăn phải các động vật gặm nhấm, tỉ lệ nhiễm bệnh do bọ chét của con mồi cắn thường thấp.
Phương thức truyền lây của bệnh dịch hạch
3. Sinh bệnh học
Tùy thuộc vào con đường xâm nhập của vi khuẩn, thông qua vết cắn của bọ chét hoặc do tiếp xúc qua vết thương hở, có thể có hai phương thức sinh bệnh khác nhau.
- Khi bị cắn bởi bọ chét, vi khuẩn xâm nhập vào bên trong. Khi gặp các bạch cầu đơn nhân, Y. pestis sẽ nhân lên bên trong bạch cầu đó. Khi các bạch cầu đơn nhân bị nhiễm vi khuẩn trở về các hạch bạch huyết, tại đây vi khuẩn vẫn tiếp tục phát triển và làm cho các hạch này viêm và sưng lên. Sau 2-6 ngày, thông qua hệ tuần hoàn và hệ bạch huyết, vi khuẩn lan ra khắp cơ thể, các hệ cơ quan. Việc nhân lên trong các bạch cầu đơn nhân, giúp vi khuẩn hình thành nên lớp vỏ giúp đề kháng lại sự thực bào của cơ thể.
- Khi ăn phải hoặc hít phải mầm bệnh (không do vết cắn của bọ chét), các vi khuẩn đã có sẵng lớp vỏ bảo vệ từ vật chủ trước mà không cần thông qua quá trình nhân lên trong tê bào bạch cầu đơn nhân, điều này làm cho việc nhiễm trùng diễn ra nhanh hơn, thời gian ủ bệnh chỉ còn từ 1-3 ngày.
Tổn thương tại vị trí nhiễm thường rất ít xảy ra. Các tổn thương có thể được nhận rõ tại các hạch bạch huyết mà hệ thống bạch huyết chảy qua vị trí nhiễm. Nhận biết các hạch có biểu hiện bệnh thông qua sự to lên, dày, tạo thành các ổ abscess, có thể có mủ rò ra bên ngoài. Các hạch bạch huyết ở sâu hoặc các bộ phận khác của cơ thể có thể bị nhiễm tương tự thông qua hệ tuần hoàn hay hệ bạch huyết. Ở trạng thái nhiễm trùng huyết, các mô khác như gan, mắt, thận, tim, lách, não, phổi đều bị nhiễm trùng. Y. pestis có chứa độc tố có thể gây phù, sốc nhiễm trùng, gây đông máu nội mạch. Diễn biến lâm sàng của bệnh có thể kéo dài từ 48 giờ đến 2 hoặc 3 tuần.
Ở chó chỉ phát triển các biểu hiện lâm sàng nhẹ như sốt, sự gia tăng của các bạch cầu. Tiếp xúc với các vật nuôi hoặc động vật hoang dã được xem như là một yếu tố nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến lây nhiễm bệnh dịch hạch trên người.
4. Biểu hiện lâm sàng
Mèo
Ở mèo, ba biểu hiện lâm sàng của bệnh đã được công nhận gồm: bệnh thể hạch, thể phổi và nhiễm trùng huyết, phổ biến nhất và gây tử vong nhiều nhất là bệnh thể hạch. Dịch hạch ở mèo có thể có các triệu chứng như sốt cao liên tục (40,7 độ C – 41,2 độ C), mất nước, tăng nhạy cảm và các hạch to lên.
Bệnh dịch hạch thể nhiễm trùng huyết có thể phát triển có hoặc không có biểu hiện sung to của các hạch. Chúng lây lan qua đường máu và gây nhiễm cho hầu hết các cơ quan trong cơ thể, mặc dù cơ quan thường cảm nhiễm nhất là phổi. Bệnh có thể có các biểu hiện của sốc nhiễm trùng như sốt, chán ăn, nôn, tiêu chảy, tăng nhịp tim, mạch yếu, hạ huyết áp, lạnh chi, đông máu nội mạch, tăng bạch cầu, trong đó tăng bạch cầu là đặc trưng của thể bệnh này ở mèo. Hình thức nhiễm trùng có thể gây tử vong trong 1 – 2 ngày sau khi có sự hiện diện của vi khuẩn.
Dịch hạch thể phổi ở mèo có thể là sự phát triển của bệnh dịch hạch thể nhiễm trùng huyết hay thể hạch. Nguyên nhân chính gây dịch hạch thể phổi thường do hít phải dịch bài thải của động vật nhiễm bệnh. Bệnh dịch hạch thể phổi do hít phải hay do phát triển từ các thể bệnh khác thường có tiên lượng xấu.
Chó
Các biểu hiện lâm sàng thường gặp ở chó như sốt, chán ăn, sưng to hạch tử cung, hạch dưới hàm, các ổ abscess, ho. Trong một báo cáo về bệnh dịch hạch ở 3 con chó, dáu hiệu lâm sàng bao gồm hôn mê (3/3), sốt (2/3), tổn thương da có mủ ở vùng cổ tử cung (2/3).
5. Chẩn đoán
Có thể chẩn đoán khá chính xác bệnh dịch hạch thông qua các thông tin lâm sàng và dịch tể học nhưng cũng cần phải có các xét nghiệm cận lâm sàng để xác nhận lại. Dịch hút từ các hạch bạch huyết, máu, mô bị nhiễm bệnh có thể được lựa chọn để xét nghiệm tùy theo biêu hiện lâm sàng của bệnh. Dịch hạch thể phổi có thể được chẩn đoán thông qua các tổn thương ở phổi khi X quang lồng ngực.
X-Ray xác định dịch hạch thể phổi
Thực hiện xét nghiệm kháng thể huỳnh quang trực tiếp đối với mẫu dung dịch hoặc thực hiện phết tế bào nếu mẫu là các mẫu mô. Cả hai phương pháp trên đều cho kết quả nhanh, chẩn đoán khá chính xác với độ tin cậy cao.
Để thực hiện chẩn đoán huyết thanh, cần thực hiện lần và hai lần cần được thu thập mẫu cách nhau từ 10 tới 14 ngày để cơ thể có tạo kháng thể chống lại Y. pestis. Các phương pháp có thể sử dụng như phương pháp ngưng kết hồng cầu, ngăn ngưng kết hồng cầu, phản ứng kết hợp bổ thể. Hiệu giá kháng thể ở lần 2 tăng gấp 4 lần lần 1 được xem là dương tính.
Nuôi cấy phân lập vi khuẩn, các mẫu bệnh phẩm có thể được thu thập từ các nguồn như mụn ở da, hạch, máu, đờm, dịch não tủy… (trước khi điều trị kháng sinh)..
Nhuộm Wayson nhằm xác định vi khuẩn
6. Bệnh tích
Ở mèo khi mắc bệnh có thể gây tử vong ở mức 50%, và xuất hiện hoại tử ở tuyến thượng thận, lá lách, gan, có thể gây nên viêm phổi thứ phát. Các ổ viêm, abscess tồn tại tại các hạch. Trong 40 trường hợp tử vong, amidan, hạch dưới hạm, hạch màng treo ruột… đều bị ảnh hưởng. Các hạch có thể bị xuất huyết, tạo abscess, hoại tử. Các hạch bạch huyết sau khi được điều trị khỏi ở khía cạnh lâm sàng chỉ có thể tăng sinh các mô lympho. Vi khuẩn xâm nhập vào mô phổi, gây bệnh viêm phổi kẻ và đặc trưng bởi sự xuất hiện tập trung cao vi khuẩn ở nơi xuất huyết. Có thể vừa xảy ra abscess và hoại tử.
Viêm hạch dưới hàm ở mèo
Viêm hạch màng treo ruột
Trên chó thí nghiệm chỉ xảy hiện tượng sốt nhẹ nên không có các dấu hiệu bệnh lý được miêu tả
7. Điều trị
Các bác sĩ nên bắt đầu các phương pháp điều trị bằng kháng sinh trước khi có kết quả xác định bệnh từ phòng thí nghiệm. Các con vật có dấu hiệu về hô hấp nên thực hiện X quang lồng ngực để xác định chúng có mắc phải dịch hạch thể phổi hay không. Các con vật đều phải được kiểm tra bọ chét, nếu có sự hiện diện của bọ chét ở trong lồng hay xung quanh phòng khám nên tiến hành điều trị bằng carbamate hoặc pyrethrins. Các mụn mủ nên được chọc để loại dịch và xử lý bằng chlorhexidien diacetate.
Y. pestis là một vi khuẩn tương đối nhạy cảm với các loại kháng sinh. Lựa chọn để điều trị cho người mắc bệnh thường là streptomycin, ngoài ra có thể sử dụng đơn gentamicin hay kết hợp doxyciline cho kết quả điều trị tương đương với streptomycin và tetracycline
Bảng 1: Các loại kháng sinh được được sử dụng trong thú y
Các loại kháng sinh dùng trong điều trị bệnh dịch hạch | ||||
Hoạt chất | Liều a(mg/kg) | Đường cấp | Tái chủng (giờ) | Liệu trình (ngày) |
Streptomycinb | 5 | IM | 12 | 21 |
Kanamycinb | 20 | IV, IM, SC | 24 | 21 |
Gentamicinb | 6-8 | SC, IM, IV | 24 | 21 |
Trimethoprim-sulfonamide | 15 | PO, IV, IM | 12 | 21 |
Tetracycline | 20 | PO | 8 | 21 |
Doxycycline, chó | 5-10 | PO | 12 | 21 |
Doxycycline, mèo | 50-100c | PO | 12 | 21 |
Chloramphenicol, chó | 50 | PO, SC | 8 | 21 |
Chloramphenicol, mèo | 50d | PO | 12 | 21 |
IM: tiêm bắp, IV: tiêm mạch, PO: đường uống, SC, tiêm dưới da
a liều cấp trong một khoảng thời gian xác định
b gây độc trên thận
c liều cần cấp cho một con mèo(không phải liều mg/kg)
d thuốc có thể gây suy tủy, cần giám sát số lượng hồng cầu trên con bệnh.
Tiếp tục điều trị bằng tetracycline trong 7 ngày ở các con vật đã hết các triệu chứng của bệnh. Ở người khi mắc bệnh do tiếp xúc khi chăm sóc cho con vật bị nhiễm bệnh nên được điều trị với một liệu trình tương tự. Tiên lượng về bệnh phụ thuộc vào các triệu chứng và loài mắc phải.
Con bệnh phải được cách ly từ 48 tới 72 giờ đầu tiên khi tiến hành điều trị bằng kháng sinh. Việc điều trị kịp thời và chính xác có thể giảm tỉ lệ tử vong ở người và động vật từ hơn 60% đến còn dưới 15%. Đối với con vật mắc phải dịch hạch thể phổi nên được điều trị lưu trú lâu hơn nhằm tránh việc tiếp xúc có thể gây nhiễm bệnh của chủ vật nuôi.
8. Phòng bệnh
Các bác sĩ thú y nên đặc biệt thận trọng khi thăm khám các con mèo ốm trong một đợt bùng phát bệnh dịch hạch, nên trang bị các biện pháp phòng ngừa cần thiết để bảo vệ chính mình, nhân viên và cả khách hàng.
Việc kiểm soát bọ chét cho chó mèo nên cần được đặc biệt quan tâm, do vật nuôi có thể dễ dàng mắc phải và lây lan cho chủ của chúng. Sử dụng các thuốc diệt hoặc ức chế bọ chét như fipronil đã cho hiệu quả trên việc kiểm soát các vector truyền lây là bọ chét trong môi trường dịch bệnh.
Vaccine sống hoặc chết của Y. pestis được sản xuất chỉ sử dụng trên người. Tuy nhiên việc tiêm vaccine cho người kể cả nhân viên thú y là không được khuyến cáo. Ở mèo việc sử dụng một vaccine chết đã không cho kết quả khả quang, chúng không thể bảo vệ con vật khỏi nhiễm khuẩn hay chết thậm chí chúng còn kéo dài các triệu chứng lâm sàng của bệnh.
Naipet.com