Bệnh Cúm Heo – Swine Influenza

0

Bệnh cúm là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm không những cho heo mà cho cả loài người, virus cúm typ A thuộc họ Orthomyxoviridae gây ra ở mọi lứa tuổi heo, nhưng nặng nhất và chết nhiều nhất là heo từ 1 – 5 tuần tuổi.

Lịch sử bệnh cúm heo

Trên thế giới, bệnh cúm heo là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, gây ra do các virus cúm thuộc typ A (như H3N2, H1N1..) lây lan rất nhanh, được phát hiện lần đầu tiên ở vùng Bắc nước Mỹ (1918), từ đây lây lan sang một số nước thuộc Bắc Mỹ và thế giới. Bệnh đã lây sang người và phát triển thành đại dịch cúm ở một số quốc gia vào năm 1918 gây chết hàng chục triệu người.

Ngày nay, bệnh cúm heo đã được thấy ở hầu hết các nước trên thế giới. Hai chủng virus cúm có độc lực cao ở Mỹ được xác định là tác nhân gây ra các vụ dịch cúm heo đó là virus cúm H1N1 và H3N2.

benh-cum-heo-swine-influenza 1Triệu chúng của bệnh cúm heo

Từ năm 1978- 1984, dịch cúm heo đã xảy ra trên quy mô lớn ở Anh, Tiệp Khắc, Balan, Kenya, Liên xô cũ, Canada, Hồng Kông và Iran. Từ năm 1985 đến nay, một số nước đã thông báo có dịch cúm heo như: Vương quốc Bỉ, Pháp, Đức, Hà Lan, Thụy Sỹ và Đan Mạch.

Ở Việt Nam bệnh cúm heo đã được phát hiện lần đầu tiên do Phan Đình Đỗ (trích dẫn trong “ Bệnh heo Việt Nam” của Trịnh Văn Thịnh, 1984). Tác giả quan sát thấy các dấu hiệu lâm sàng và bệnh tích của heo bệnh: sốt cao, khó thở, ho do viêm phổi và viêm phế quản, lây lan nhanh, tương tự như những mô tả kinh điển của Easterday (1972) về bệnh cúm heo ở Mỹ. Từ đó đến nay, bệnh cúm heo ở nước ta đã bị lãng quên vì đã không xảy ra và không được tiếp tục nghiên cứu.

Nguyên nhân gây bệnh cúm heo

Tác nhân gây bệnh là virus cúm H1N1, H3N2, H3N1… các chủng virus cúm gia cầm phân lập được từ heo bệnh là chủng A/swine/Kanagawa/2/78 (H1N2), chủng A/Tokyo/6/73 (H3N2) và chủng A/Kumamato/22/76 (H1N1) phân lập từ Tây Ban Nha. Đặc biệt chủng này có kháng nguyên N1 tương tự như N2 của các chủng trên.

Các virus cúm có thể gây bệnh cho người, cho các loài gia súc, gia cầm và chim hoang dã trong đó có heo. Các nhà khoa học xác định virus cúm có 2 kháng nguyên bề mặt là H và N luôn thay đổi. Hiện nay, người ta đã phân lập được nhiều chủng virus thuộc tup A có 9 kháng nguyên N xếp từ N1, N2 đến N9 và 16 kháng nguyên H từ H1, H2 đến H16 (theo tổ chức Y tế thế giới). Từ 9N và 16H có thể tạo ra 144 virus cúm và chúng có thể gây ra 256 dạng cúm cho người và động vật.

Trong môi trường tự nhiên, virus cúm có thể tồn tại từ 3 đến 30 ngày vẫn giữ nguyên độc lực gây bệnh. Virus bị diệt dưới ánh sáng mặt trời và nhiệt độ trên 65 độ C trong 30 phút. Các loại thuốc sát trùng diệt được virus cúm là: Formol 2%, 2% của PVP.iodine 10%, Virkon.S, dung dịch xút 5%, nước vôi 10%, B.K.Vet.

Đặc điểm dịch tễ

Bệnh cúm lợn được xếp vào bệnh truyền nhiễm nhóm A nghĩa là bệnh cực kỳ nguy hiểm, đại lưu hành, lây lan rất nhanh ở các lứa tuổi, nhưng heo con từ 1 – 5 tuần tuổi bị bệnh nặng và tỷ lệ chết cao nhất.

benh-cum-heo-swine-influenzaBệnh cúm heo có thể lây sang gia cầm và ngược lại, từ đó lây sang người

Bệnh cúm heo có thể lây sang gia cầm và ngược lại, từ đó lây sang người. Năm 1918, trên thế giới đã có 20 triệu người bị chết do virus H1N1, sau đó những quan sát, thống kê của các chuyên gia y học (WHO) cho thấy: từ 1959 đến 1983 đã có khoảng 24 triệu người ở lứa tuổi 14 -30 bị nhiễm virus cúm heo và bị chết ở nhiều quốc gia. Virus cúm gia cầm khi vào heo có thể gây đột biến gen, tạo các chủng virus cúm có độ lực cao.

Bệnh cúm heo lây lan qua đường hô hấp là chính.

Bệnh phát ra quanh năm, nhưng chủ yếu là vào thời gian chuyển mùa thời tiết ấm sang thời tiết lạnh.

Từ đầu tháng 4 năm 2009 đến nay, trên thế giới đã có hơn 140 nước và vùng lãnh thổ công bố có cúm heo, đã có trên 295.000 người mắc bệnh trong đó có hàng nghìn người chết. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã nâng mức báo động đỏ lên cấp 6 tức là cấp cao nhất.

Triệu chứng lâm sàng

Thời gian ủ bệnh: 2 – 5 ngày, rất ít khi 4 ngày.

Heo bị bệnh thể cấp tính đột ngột bùng phát và lây lan nhanh ra toàn đàn với tỷ lệ rất cao (gần 100%), sốt cao 41,5 – 42 độ C. Heo bệnh buồn bã, nằm tụm đống với nhau, khi bị xua đuổi thì chúng đi loạng choạng, run rẩy rồi nằm bệt, thở khó và thở nhanh (thở thể bụng). Vì thở khó, heo phải ngồi như chó ngồi, ăn kém hoặc bỏ ăn, chảy nước mắt, nước mũi, có những mảng phát ban đỏ ở tai chân, mõm và ở phần da mềm như bụng, bẹn…

Heo con theo mẹ từ 1 – 5 tuần tuổi chết rất nhanh và tỷ lệ chết cao.Những dấu hiệu lâm sàng rất nặng diễn ra 2 – 4 ngày đầu, nhưng sau đó cũng giảm đi rất nhanh. Sức khỏe của heo được hồi phục sau 6 – 7 ngày. Tuy nhiên, có một số heo vẫn thở khó và ho không giảm do viêm đường hô hấp chính phát và thứ phát.

Phần lớn heo lớn trên 5 tuần tuổi có tỷ lệ chết ít, khoảng 4-5%. Heo bị chết chủ yếu do viêm phế quản – phổi nặng và nếu bệnh ghép với các vi khuẩn gây bệnh đường hô hấp khác như: Mycoplasma, liên cầu khuẩn (Streptococcus), tụ huyết trùng (Pasteurella)… thì tỷ lệ chết sẽ cao hơn.

Heo nái mang thai khi nhiễm virus cúm sẽ bị bệnh nặng hơn so với heo vỗ béo và thường bị sảy thai sau 3-5 ngày kể từ khi có triệu chứng bệnh. Nếu không bị sảy thai thì heo nái bệnh sinh ra con yếu ớt, khó nuôi và chết dần.

Bệnh tích mổ khám

Mổ khám heo chết do bệnh cúm từ 1-5 tuần tuổi cho thấy: Phế quản và phổi có nhiều dịch nhầy thẩm xuất và bọt. Niêm mạc phế quản có nững đám tụ huyết đỏ, phổi và chùm hạch phổi, hạch phế quản sưng phù nề. Cắt ngang các thùy phổi thấy có nhiều dịch lẫn với các đám sợi huyết chảy ra và hiện tượng này cũng thấy ở trong các tiểu phế quản, làm tắc nghẽn lưu thông không khố, đó chính là nguyên nhân gây khó thở. Ở một sô heo bị bệnh nặng còn thấy các tiểu thùy phổi tụ huyết màu xám đỏ, sưng phù thũng chiếm 30-50% thể tích của phổi. Niêm mạc mũi heo bệnh cũng có hiện tượng sưng phù nề, tụ huyết và chảy dịch nhầy.

Chẩn đoán

  • Chẩn đoán lâm sàng: bệnh xảy ra đột ngột, lây lan nhanh (gần 100% đàn heo), heo sốt cao, khó thở và ho do viêm phổi và viêm phế quản- phổi. Heo ở lứa tuổi 1-5 tuần bị bệnh nặng, có tỷ lệ chết đến 40%, nhưng ở heo trưởng thành, heo vỗ béo tỷ lệ chết thấp 4-5 %.
  • Chẩn đoán phòng thí nghiệm: phân lập và định hoạt virus cúm.
  • Chẩn đoán miễn dịch: các phương pháp ngưng kết hồng cầu (HI, HA). Phương pháp miễn dịch gắn men (ELISA) được áp dụng để chẩn đoán nhanh, chính xác bệnh cúm heo.

Điều trị

Không có thuốc đặc trị bệnh. Do vậy khi dịch cúm xảy ra, người ta áp dụng các biện pháp nâng cao sức đề kháng và chống nhiễm khuẩn thứ phát.

  • Cách ly chuồng có heo bị cúm với các chuồng khác, không di chuyển heo ra khỏi chuồng, Phải bao vây, tiêu độc triệt để khu chuồng như: Phun thuốc sát trùng mạnh PVP.Iodine 10%, Virkon.S, B.K.Vet, rắc vôi bột xung quanh chuồng, cử người nuôi riêng heo chuồng đó với đầy đủ các trang bị bảo hộ (khẩu trang, áo quần bảo hộ, ủng, găng tay, kính và mũ bảo hộ).
  • Cho heo uống đủ nước sạch và mát, có pha thuốc điện giản hoặc vitamin trong nước cho heo uống tự do để giảm thiệt hại, giải nhiệt, nâng sức đề kháng và kích thích tính thèm ăn của heo, dùng 5-7 ngày liên tục.
  • Cho heo ăn thức ăn nhẹ dễ tiêu, thêm rau xanh, củ quả rứa sạch và thái nhỏ sẽ làm cho heo chóng hồi phục.
  • Sử dụng thuốc kháng sinh trộn vào thức ăn, hoặc pha nước cho uống. Có thể dùng một trong các kháng sinh và cách chữa của bệnh suyễn heo để ngừa bệnh thứ phát và giảm tỷ lệ chết, chống biến chứng và còi cọc. Thuốc phải dùng cho cả đàn heo trong chuồng, thời gian sử dụng 4-5 ngày liền:
  • Nếu viêm phổi bệnh nặng thì phải tiêm thuốc đễ chống nhiễm khuẩn thứ phát đường hô hấp và tiêu hóa.

Phòng bệnh

Không nuôi chung các lứa tuổi heo khác nhau trong cùng một chuồng hoặc trong một khu vực với một số loài gia cầm và chim hoang khác.

Theo dõi đàn heo, phát hiện các dấu hiệu lâm sàng của heo nghi bị bệnh, kết hợp kiểm tra huyết thanh để xác định chính xác và áp dụng các biện pháp phòng trị tích cực.

Thực hiện đầy đủ các biện pháp vệ sinh thú y: giữ chuồng luôn khô sạch, ấm áp mùa đông, thoáng mát mùa hè, định kỳ phun thuốc sát trùng, ủ phân để diệt mầm bệnh.

Tổ chức tiêm vacxin cho đàn heo trong vùng có lưu hành bệnh hoặc các trại heo giống, nếu có điều kiện.

Hiện nay, các loại vacxin vô hoạt được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới như:

  • Flusure RTU của Mỹ, là vacxin vô hoạt phòng bệnh cúm heo. Tiêm lần 1 cho heo con lúc 3 tuần tuổi và sau 3 tuần tiêm nhắc lại lần 2 (mỗi con tiêm sâu bắp thịt 2ml vacxin). Sau đó nếu nuôi tiếp thì cứ 6 tháng tiêm lại một lần.
  • Flusure/Respisure RTU: vacxin vô hoạt đa giá của Mỹ phòng bệnh cúm và suyễn heo (cách dùng và phương pháp dùng như vacxin Flusure RTU).
  • Flusure/Respisure 1 ONE: cũng là vacxin vô hoạt đa giá của Mỹ phòng 2 bệnh cúm và suyễn heo (dùng như loại nêu trên).
  • Gripork của Tây Ban Nha: vacxin vô hoạt chống bệnh cúm heo, chứa virus typ A chủng Hsw- N hoặc typ A chủng Hsw- N2.G và A.SH. Tiêm 1ml/heo con 10 – 12 ngày tuổi và nhắc lại khi heo con đạt 35 – 40 ngày tuổi, hoặc tiêm lần đầu lúc heo 30 – 40 ngày tuổi 1ml/con sau đó nhắc lại 2ml/con khi heo đạt 60 – 65 ngày tuổi.

Với heo nái và đực giống, tiêm vacxin chống cúm 2ml/con lúc 21 ngày trước khi phối giống, sau đó một năm tiêm định kỳ 2 lần cách nhau 6 tháng.

  • SUIPRVAC AD- Coli- Flu: Đây là vacxin vô hoạt đa giá của Tây Ban Nha chống 3 bệnh cúm heo- giả dại- tiêu chảy do E.coli. Tiêm bắp 2ml/con, lần 1 lúc heo đạt 3 – 4 tuần tuổi, sau 25 – 30 ngày tiêm nhắc lại và hằng năm tiêm định kỳ 2 lần cách nhau 6 tháng.
  • IZOVAC SUI- FLU: vacxin vô hoạt chống bệnh cúm heo của Italia, chứa hai chủng H1N1 và H3N2.
    Heo vỗ béo tiêm 2ml/con lúc 90 ngày tuổi và nhắc lại sau 2 – 3 tuần, có thể tiêm lại lần 3 nếu có nguy cơ nhiễm bệnh.

Heo nái chửa tiêm 2ml/con lúc chửa được 70 ngày và tiêm nhắc lại 2 – 3 tuần sau đó. Định kỳ tiêm 2 lần/năm, cách nhau 6 tháng.
Endfluence – 2: vacxin vô hoạt chống cúm heo của Hà Lan chứa 2 chủng H1N1 và H3N2, cách dùng và liều dùng như vacxin trên./

GS-TS Lê Văn Năm

Naipet.com

 

Facebook Comments
Share.

Chat
1