1. Giới thiệu bệnh
Bệnh giả dại hay còn gọi là bệnh Aujeszky (Morbus Aujeszky). Đây là một bệnh truyền nhiễm của heo xảy ra ở dạng cấp tính với tỷ lệ chết cao ở heo con và đôi khi không có triệu chứng lâm sàng điển hình hoặc với một vài triệu chứng thần kinh ở heo sau cai sữa đến 3 tháng tuổi. Đối với heo trưởng thành, bệnh xảy ra giống như bệnh cúm với các triệu chứng của viêm phổi.
2. Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh do một loại virus chứa AND thuộc nhóm Herpesviridae có sức sống dẻo dai. Trong điều kiện đông lạnh hoặc sấy khô, virus có thể tồn tại đến một năm. Ánh sáng mặt trời trực tiếp giết chết virus giả dại trong vòng 6 – 7h, nhiệt độ 100 độ C sau 30 giây, 70 độ C sau 15 phút, 60 độ C sau 1h. Trong thức ăn, virus giữ hoạt lực trong vòng 40 ngày, ở trên mặt đất từ 6h đến 5 ngày, trong xác gia súc thối rữa 10 – 28 ngày, trong xác gia súc không bị thối rữa 8 – 175 ngày.
Dưới tác dụng của dung dịch xút 2 – 3% hay nước vôi, 15 – 20% virus giả dại chết sau một vài phút, nhưng tương đối bền vững dưới tác dụng của Phenol, Creolin… Thuốc sát khuẩn tốt nhất là Formol 1,5%, 2% của PVP.Iodine 10%, 2% của B.K.Vet.
Người ta đã phân lập được các chủng virus Aujeszky khác nhau từ các heo bị bệnh ở mức độ khác nhau, nhưng chúng lại có cùng cấu trúc kháng nguyên.
3. Đặc điểm dịch tễ
Trong điều kiện tự nhiên, các loài gia súc bị nhiễm bệnh giả dại là: heo, trâu, bò, dê, ngựa, chó, mèo và một số súc vật hoang dại khác như: chuột, heo rừng, chồn, cáo… Trong điều kiện gây bệnh nhân tạo, thỏ là động vật mẫn cảm nhất, sau đó là chuột bạch và nhiều loại gia cầm khác. Người và ngựa không bị bệnh này.
Heo ở tất cả các lứa tuổi đều có thể bị nhiễm bệnh giả dại nhưng mẫn cảm nhất là heo con sơ sinh, nái non, nái chửa cuối kỳ II và trại heo chưa lần nào bị nhiễm bệnh. Ở những trại heo đã xảy ra dịch giả dại thì bệnh xảy ra có tính dịch địa phương lưu cữu chủ yếu ở heo ngay sau cai sữa hoặc bệnh xảy ra ở heo mới nhập đàn sau 6 – 7 ngày.
Nguồn bệnh nguy hiểm nhất là động vật gặm nhấm như chuột. Chúng mang virus Aujeszky tới 100 ngày, thậm chí lâu hơn rồi truyền lây sang heo thông qua phân, nước tiểu và xác chết (từ heo, căn nguyên lại truyền cho bò, trâu qua phương thức tiếp xúc trực tiếp rồi từ trâu, bò lại lây sang chuột qua thịt và xác trâu, bò).
Một trong những nguồn bệnh chính là heo ốm, chúng thải virus theo nước mũi, nước tiểu và sữa. Heo ốm khỏi bệnh tiếp tục thải mầm bệnh một vài tuần sau khi bình phục.
Bệnh có thể lây lan cơ học qua ve, rận và một số loài ký sinh trùng khác. Ngoài ra, chim cũng có thể bị nhiễm và mang mầm bệnh giả dại và trở thành vật truyền bệnh.
Trong tự nhiên, heo bị nhiễm virus giả dại chủ yếu qua đường sinh dục, tiêu hóa… Heo con bị nhiễm do bú sữa của heo mẹ mang virus.
Bệnh giả dại xảy ra quanh năm theo từng đợt dịch và theo chu kỳ. Chỉ trong vòng chục ngày, số heo bị ốm do giả dại có thể lên tới 60 – 100%. Đợt dịch thường kéo dài 1 – 1,5 tháng, tạm ổn một thời gian rồi nở đợt dịch mới theo sơ đồ hình Sin.
Thông thường trước khi xảy ra dịch giả dại ở heo nói riêng và gia súc nói chung thường xảy ra dịch ở chuột trước (các loại chuột chết hàng loạt). Đó là một điều kiện để chuẩn đoán sớm bệnh giả dại và có biện pháp phòng chống kịp thời . Những đàn heo sơ sinh hoặc những trại heo lần đầu tiên bị bệnh thì tốc độ lây lan nhanh, tỷ lệ heo ốm và chết rất cao.
4. Cơ chế bệnh sinh
Đã tồn tại hai quan niệm về cơ chế sinh bệnh. Quan niệm thứ nhất: virus giả dại là loại hướng thần kinh, bởi thế chúng phân tỏa trong cơ thể theo mô thần kinh và khu trú ở đó để gây bệnh. Theo quan niệm thứ hai- Hướng toàn thân: trước hết chúng gây nhiễm trùng huyết, tiếp theo nó mới khu trú ở hệ thần kinh. Ngày nay, phần lớn người ta đồng ý theo quan niệm thứ hai.
Trong thời gian heo bị nhiễm trùng huyết, virus được phát hiện nhiều ở trong máu, các cơ quan nội tạng, cơ, da, đặc biệt thấy nhiều ở trong mô phổi, dịch phồi và chất nhầy từ mũi nhưng trong nước tiểu rất ít khi thấy virus.
Sau khi vào hệ thần kinh, virus cư trú nhiều ở hành não, cầu não. Tại đây, chúng gây viêm não và tủy dẫn đến liệt thần kinh, bởi vậy người ta còn gọi bệnh là viêm hành não truyền nhiễm. Ở heo trưởng thành, virus gây tổn thương cơ quan hô hấp, dẫn đến viêm phổi tiết dịch tràn lan.
5. Triệu chứng lâm sàng
Heo con theo mẹ thường bị bệnh ở thể thần kinh trong khi đó ở heo lớn, triệu chứng bệnh giống như bệnh cúm với các biểu hiện rối loạn hô hấp. Thời kỳ ủ bệnh kéo dài 12 – 15 ngày, ở heo dưới 10 ngày tuổi, bệnh xảy ra rất nhanh chúng có thể bị nhiễm bệnh qua bào thai hoặc bú sữa của heo nái bị bệnh ở dạng cấp tính. Heo con sơ sinh có thể bị chết tới 100%.
Bệnh Aujeszky trên các heo nái, heo con, nái đẻ
5.1. Heo con theo mẹ
Trước khi các triệu chứng thần kinh xuất hiện thì hiện tượng nhiễm trùng huyết là phổ biến: heo sốt cao trên 42 độ C, ủ rũ, giảm ăn. Heo ốm bị kích thích thần kinh, run, co giật, chảy nước bọt. Sau khoảng 1-3 ngày, nếu heo không chết thì xuất hiện triệu chứng của tổn thương hệ thần kinh trung ương. Vào thời điểm này, thân nhiệt thường giảm. Heo chuyển động vô hướng, dáng đi không chắc chắn, xoay vòng tròn. Nôn hoặc muốn nôn, đồng tử bị giãn nên giảm thị lực. Heo ốm rất mẫn cảm với tác động bên ngoài, khi sờ vào thì heo rít lên. Về sau, tính mẫn cảm giảm xuống, heo kêu lạc giọng, sau đó liệt các dây chằng cuống họng nên bị mất tiếng. Đặc trưng của giai đoạn này là heo cong lưng, mông yếu, khi nằm xuống thì chân bơi trong không khí. Đôi khi heo đột ngột đứng dậy, đi tới đi lui về phía trước hoặc lùi về phía sau hoặc tìm cách nhảy vọt ra khỏi chuồng, rồi rơi bịch xuống đất, nằm yên một lúc sau đó lại dậy, lại nhảy.
Trong một số trường hợp, bệnh có thể xảy ra ở dạng như bị choáng. Heo con ốm thường đứng ở tư thế mõm dựa vào thành chuồng, sàn hoặc máng ăn, mất phản xạ với xung quanh. Trường hợp này các dây thần kinh chuyển động bị liệt làm cho heo bị mất giọng và từ mũi, miệng chảy nhiều nước bọt, nước nhớt. Hoạt động tim mạch bị rối loạn, mạch đập và nhịp thở có thể tăng do viêm và phù phổi. Tỷ lệ chết ở heo trong bệnh giả dại cổ điển là 83- 94% phụ thuộc vào lứa tuổi và mức độ nặng nhẹ của bệnh (có thể xảy ra trong khoảng 16 – 36h hoặc đến 10 ngày kể từ khi xuất hiện các triệu chứng lâm sàng).
Khi bệnh xảy ra ở dạng ức chế thì không có các biểu hiện rối loạn thần kinh. Heo ốm bị hôn mê, yếu và bỏ ăn, rất khó chẩn đoán. Trong trường hợp này, phải gửi bệnh phẩm đi xét nghiệm ở cơ sở y tế chuyên ngành.
5.2. Ở heo sau cai sữa đến 3 tháng tuổi
Triệu chứng lâm sàng ở heo sau cai sữa đến 3 tháng tuổi và heo trưởng thành xảy ra nhẹ hơn- giống như bệnh cúm lớn nhưng lây lan nhanh ra toàn trại, toàn khu vực chăn nuôi. Heo ốm yếu, bồn chồn, ăn yếu hoặc bỏ ăn, thân nhiệt tăng lên 41- 42 độ C. Xuất hiện thường xuyên triệu chứng rít và ho, đôi khi thấy dịch chảy ra từ mũi, mắt. Bệnh kéo dài 3- 7 ngày, heo tự khỏi bệnh hoặc xuất hiện viêm phổi, phế quản phổi. Heo ho liên tục, ho thành cơn kéo dài, từ mũi chảy ra dịch mũi mủ. Heo bệnh kém ăn, suy nhược cơ thể chết sau 8- 10 ngày. Một số ít heo (dưới 3%) xuất hiện rối loạn thần kinh. Tỷ lệ chết ở lứa tuổi thường không vượt quá 3 – 10 % và không quá 3% ở heo lớn hơn. Khi bị mắc giả dại, heo thường bị bội nhiễm với các bệnh khác như nhiễm trùng huyết, phó thường hàn, tụ huyết trùng.
5.3. Ở heo nái và heo đực giống
Ở những heo này, bệnh Aujeszky thường thể hiện như giống bệnh cúm heo, mỗi con có những biểu hiện không đầy đủ của bệnh giả dại. Nhưng tổng đàn thì thấy:
- Heo khụt khịt, hoặc ho liên tục do viêm phổi, viêm phế quản phổi, chảy nước mắt, nước mũi, thậm chí ho liên tục, từ lỗ mũi có dịch mủ chảy ra nhiều.
- Một số heo nôn hoặc có phản xạ nôn, lúc táo bón, lúc ỉa chảy.
- Một số nái chửa bị sáy thai hoặc đẻ con ra chết yểu.
- Một số khác khó khăn trong di chuyển, yếu mông, hay di chuyển xoay vòng.
- Bệnh kéo dài 7- 10 ngày và chủ yếu heo tự khỏi, tỷ lệ chết thấp, không đáng kể.
6. Bệnh tích mổ khám
Bệnh không có bệnh tích điển hình. Biến đổi bệnh tích thường xảy ra ở não. Màng não bị xung huyết đôi khi thấy xuất huyết. Ở trong não chứa nhiều dịch thẩm xuất. Niêm mạc mũi bị viêm sưng, tuyến nước bọt bị viêm mủ, vùng họng viêm hoại tử, phổi bị viêm và phù nề.
Ở heo con theo mẹ thấy xuất huyết điểm dưới vỏ thận giống như bệnh tích của dịch tả heo. Ngoài ra còn thấy xuất huyết điểm trên niêm mạc ruột non. Thận và gan thường thấy nhiều điểm hoại tử màu xám hoặc hơi vàng.
Nái chửa có thể sảy thai. Thai bị phù nề dưới da, có nhiều điểm hoại tử ở gan, thận. Heo lớn có nhiều bệnh tích giống dịch tả: viêm phổi, xuất huyết điểm ở thận.
Xét nghiệm vi thể thấy viêm mủ màng não. Biển đổi tập trung ở tế bào thần kinh và tế bào đệm, phát hiện các hạt virus trong tế bào thần kinh, xuất hiện bạch cầu đơn nhân lớn tập trung quanh thành mạch. Viêm thoái hóa tế bào đệm thần kinh các thể vùi trong nhân tế bào kẽ của hạch amidal và lớp nội mô của phế nang…
7. Chẩn đoán
Dựa trên kết quả lâm sàng và xét nghiệm trong phòng thí nghiệm để chẩn đoán. Bệnh giả dại ở heo đặc trưng với mối liên quan đến việc xuất hiện giả dại ở chuột và động vật ăn cỏ, có tính lây lan rất lớn trên heo, không theo mùa vụ, có triệu chứng rối loạn thần kinh ở heo con theo mẹ và tỷ lệ chết rất cao. Với heo trưởng thành, bệnh xảy ra ở mức độ nhẹ kèm theo các triệu chứng tổn thương cơ quan hô hấp giống như bệnh cúm heo.
Rất cần thiết phải làm phương pháp sinh học: lấy 10ml huyễn dịch vô trùng từ não hoặc hạch cổ của heo nghi bệnh giả dại, tiêm bắp 1-3ml cho thỏ. Thỏ sẽ chết trong 3- 8 ngày, chỗ tiêm sưng tấy, rách toác.
Phân lập virus bằng việc nuôi cấy bệnh phẩm trên tế bào PK- 15 (tế bào thận heo) và quan sát thấy bệnh tích tế bào điển hình (CPE). Có thể dùng phương pháp miễn dịch huỳnh quanh để giám định virus giả dại.
8. Chẩn đoán phân biệt
Cần chẩn đoán phân biệt bệnh giả dại với các bệnh sau:
8.1. Bệnh dịch tả heo
Bệnh cũng có thể xảy ra với các triệu chứng tổn thương cơ quan thần kinh trung ương, nhưng khác ở điểm tỷ lệ chết của heo trưởng thành rất cao. Thêm vào đó, triệu chứng rối loạn thần kinh trưng ương do bệnh dịch tả gây ra thường rất ít gặp và bệnh tích là xuất huyết ở nhiều cơ quan khác nhau như thận, lách, đường tiêu hóa bị viêm hoại tử tạo ổ loét hình xoáy ốc- Button.
8.2. Bệnh viêm màng não truyền nhiễm
Bệnh có thể xảy ra với các triệu chứng lâm sàng giống như bệnh giả dại, nhưng các loài gia súc khác (ngoài heo) không mắc bệnh viêm màng não truyền nhiễm. Điểm quan trọng nhất để phân biệt 2 bệnh này là phản ứng sinh học: tiêm bệnh phẩm cho thỏ, kết quả thu được là âm tính đối với bệnh viêm màng nào truyền nhiễm còn kết quả dương tính (thỏ chết) đối với bệnh giả dại.
8.3. Bệnh do Listeria gây ra
Đặc trưng là rối loạn hệ thần kinh trung ương, đặc biệt lở heo con 1-2 tháng tuổi. Chẩn đoán phân biệt cuối cùng là ở trong phòng thí nghiệm với việc phân lập, giám định virus hoặc thử phản ứng trên thỏ.
8.4. Bệnh phù thũng (Coli dung huyết)
Bệnh này cũng xảy ra ở dạng rối loạn hệ thần kinh nhưng điều khác với bệnh giả dại là đặc trưng phù thũng ở vùng trán, mi mắt, hầu, viêm sưng ở thành dạ dày- ruột và màng treo ruột. Bệnh phù thũng phần lớn xảy ra ở heo tập ăn, trong lúc cai sữa, sau cai sữa và những con to béo nhất đàn thường xảy ra trước. Bệnh lây lan chậm và không phải tất cả các con ở mọi lứa tuổi đều bị bệnh (heo lớn và heo chưa tập ăn hầu như
không mắc bệnh).
8.5. Bệnh nhiễm trùng huyết
Rất hiếm khi xảy ra ở dạng độc lập. Nó có thể bội nhiễm bệnh giả dại, chủ yếu ở heo trưởng thành. Trong khi đó, một số bệnh như dịch tả heo và cúm thường bị bội nhiễm bới nhiễm trùng thứ phát.
8.6. Bệnh thiếu vitamin và ngộ độc thức ăn
Với bệnh giả dại cần đánh giá mức độ lây lan, thành phần và chất lượng thức ăn, điểm đặc biệt khi xuất hiện bệnh và tiến triển bệnh đồng loạt giống nhau. Trong mọi trường hợp thì không có tính lây và thân nhiệt không tăng.
9. Miễn dịch bệnh giả dại
Heo ốm khỏi bệnh tạo được miễn dịch đến 2 năm hoặc hơn. Heo con sinh ra nái ốm đã khỏi bệnh (trừ một số trường hợp) sẽ có miễn dịch đến 45- 50 ngày, một số con đến một năm. Huyết thanh của lơn ốm khỏi bệnh chứa kháng thể đặc hiệu làm trung hòa được virus gây bệnh giả dại.
10. Điều trị
Hiện nay chưa có thuốc đặc trị. Kháng huyết thanh chỉ có hiệu lực ở giai đoạn đầu của bệnh và giá thành đắt nên ít được sử dụng. Tốt nhất nếu bệnh giả dại xảy ra lần đầu thì cần tiêu hủy tận gốc và làm vệ sinh triệt để. Ở những cơ sở chăn nuôi mà bệnh đã nhiều lần bùng phát thì có thể điều trị triệu chứng theo cách sau:
- Thuốc an thần dùng 2- 3ml dung dịch Acepromazin 1% tiêm bắp cho heo 10kg (2-3ml/10kgP).
- Lấy huyết thanh vô khuẩn của heo ốm do bệnh giả dại đã khỏi, tiêm dưới da hoặc tiêm bắp với liều 5ml/con/lần, 2-3 ngày sau tiêm mũi thứ 2.
- Để tránh các bệnh thứ phát đường hô hấp cần tiêm kháng sinh Vidan.T, Linco- Gen LA, Tialin.Thái…1ml/10kgP/lần nhân 2 lần/ngày nhân 3 ngày liên tục, hoặc Macavet 1ml/10- 15kgP ngày đầu tiêm 1 lần, sau 48 giờ tiêm nhắc lại, tiêm 3 mũi liên tục, hoặc Ceftiofur 1g/200kgP/lần, mỗi ngày tiêm 1 lần, tiêm 3 ngày là khỏi, ngoài ra còn dùng các loại thuốc bổ và trợ lực như: Cafein, vitamin B1, vitamin C, Urotropin, Calcium fort, Calci B12……
Đối với những con khỏe về lâm sàng thì tách riêng và tiến hành tiêm vacxin phòng chống bệnh giả dại (kể từ 2 ngày tuổi), sau tiêm 10- 14 ngày thì miễn dịch, miễn dịch kéo dài 8- 12 tháng. Cơ sở chăn nuôi heo được coi là khỏi bệnh nếu trong vòng 6 tháng kể từ khi dùng vacxin mà không heo con nào bị bệnh.
11. Phòng bệnh
11.1. Phòng bệnh bằng vacxin
a. Vacxin sống
Vacxin sống chỉ áp dụng cho những nơi bệnh rất phổ biến và ở các trại thương phẩm. Một số loại vacxin sống nhược độc đang lưu hành ở nước ta như:
- AKIPOR 6.3 của Rhone- Poulence- Pháp. Đây là vacxin sống chủng Bartha đã loại trừ IgE, mỗi liều 2ml. Nái hậu bị tiêm 2 mũi cách nhau 3- 4 tuần trước khi phối. Nái sinh sản tiêm 2 lần cách nhau 3-4 tuần bất kỳ giai đoạn nào của thời gian chửa. Với heo thịt, mũi đầu tiên tiêm ngay sau khi cai sữa và mũi thứ 2 lúc 10 tuần tuổi.
- GESKYPUR của Pháp, liều tiêm 2ml/con. Đối với nái tiêm 2 mũi cách nhau 3- 4 tuần trước khi phối giống lần đầu và các nái đã đẻ tiêm bất cứ lúc nào trong thời gian chửa với 2 mũi cách nhau 3- 4 tuần.
- AUJESPIG TM.L của Canada. Tiêm sâu bắp thịt, với heo con đang bú mẹ: 0,5ml/con, các heo khác 2ml/con. Thời gian tiêm vacxin:
+ Đối với heo nuôi thịt: lần đầu lúc 8 tuần tuổi, lần 2 lúc 11-12 tuần tuổi.
+ Đối với heo sinh sản: lúc nhỏ tiêm như heo nuôi thịt, sau đó tiêm lúc trước khi phối giống 3-4 tuần và tiêm nhắc lại vào lúc 2- 3 tuần trước khi đẻ.
- IZOVAC AU- K/61- BS là vacxin sống nhược độc Italia. Vacxin chứa chủng virus K61/BS. Tiêm bắp cổ 2ml/con. Nái chửa hậu bị tiêm lúc 60- 90 ngày tuổi, tiêm lần 2 sau 3-4 tuần và lần 3 sau 6- 7 tháng.
Khi dịch xảy ra có thể tiêm vaccin trực tiếp vào đàn heo bệnh.
b. Vacxin chết
Vacxin chết áp dụng những nơi bệnh mới xảy ra và ở các cơ sở giống.
- AUJESPIG.K : vacxin chết (vô hoạt) dùng phòng bệnh giả dại cho heo mọi lứa tuổi.
+ Đối với heo con đẻ ra từ heo nái chưa được tiêm phòng thì lần đầu tiêm sau khi sinh 2 ngày. Sau đó 2-3 tuần tiêm nhắc lại.
+ Đối với heo thịt: Sau lần chủng thứ 2 của heo con từ 3-4 tuần thì tiêm nhắc lại lần 3. Đặc biệt là heo mới nhập đàn, không rõ lý lịch phải tiêm ngay, tiêm hết mọi con trước khi nhập đàn.
+ Đối với heo nái: Tiêm bất cứ lúc nào trong thời kỳ mang thai và sau đó tiêm nhắc lại 30 ngày trước khi đẻ.
+ Heo đực giống mỗi năm tiêm 2 lần, cách nhau 6 tháng.
- PARVOSUIN- MR/AD : vacxin vô hoạt tam giá phòng 3 bệnh: sảy thai do Parvovirus, giả dại, và đóng dấu heo. Tiêm cho heo cai sữa 2 lần cách nhau 3- 4 tuần tuổi, tiêm định kỳ 2 lần/ năm.
- SUIPRVAC- AD/COLI/Flu: vacxin vô hoạt tam giá phòng 3 bệnh cúm heo, giả dại và Ecoli. Tiêm 2ml/con, lần 1 lúc 3- 4 tuần tuổi và tiêm nhắc lại sau 25- 30 ngày, tiêm định kỳ 2 lần/năm.
- MK- 25- VR2: vacxin vô hoạt tam giá của Bungari chống 3 bệnh dịch tả heo, đóng dấu heo, và giả dại. Tiêm 2ml/con, lần 1 lúc heo 35- 40 ngày tuổi, lần 2 sau 25- 30 ngày.
11.2. Phòng bệnh bằng biện pháp an toàn sinh học
a. Các biện pháp phòng bệnh từ xa
- Chỉ nhập heo có lý lịch rõ ràng, đã qua kiểm tra huyết thanh âm tính với Aujesky, cố gắng theo nguyên tắc cùng vào cùng ra.
- Phải xây dựng khu nái đẻ riêng rẽ, nái đẻ này cách nái đẻ kia càng xa càng tốt.
- Thường xuyên vệ sinh sạch sẽ, tiêu độc, diệt côn trùng, chuột. Phun thuốc sát trùng tối thiểu một tuần một lần bằng 2% của dung dịch PVP.iodine 10%, Formol 1,2- 2%…
- Tuyệt đối cấm tiếp xúc giữa heo nái với trâu, bì, dê, cừu, chó, mèo…
- Không mang thịt heo sống hoặc sản phẩm heo sống vào trang trại với bất kỳ lý do và hình thức nào.
- Thường xuyên giám sát lấy quy trình xuất nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thức ăn.
- Tiêm phòng chủ động vacxin sống nhược độ như MK- 25- VR2, Akipor 6.3, Izovac- K/61-BS…
b. Các biện pháp được sử dụng sau khi bệnh giả dại nổ ra
- Đối với trại giống: Khẩn trương khoanh vùng và dập dịch bằng cách ly ngay đàn heo con cùng với nái đẻ bị bệnh, tiêm ngay kháng huyết thanh cho heo ốm và heo khỏe nhưng đã tiếp xúc với heo bệnh. Trường hợp số heo bệnh ít thì tốt nhất tiêu hủy. Sau khi tiêm kháng huyết thanh 4- 5 ngày thì tiêm nhắc lại, đồng thời triển khai vệ sinh tiêu độc cách ngày.
Tất cả heo khỏe còn lại chưa tiếp xúc với heo ốm thì phải tiêm ngay vacxin sống nhược độc. Những heo đã khỏi bệnh hoặc đã được tiêm kháng huyết thanh cũng phải được tiêm vacxin sống nhược độc.
- Đối với trại heo nuôi thương phẩm: Bệnh giả dại xuất hiện giống như cúm heo- thể phổi. Với tỷ lệ chết thấp nhưng đây là nguồn bệnh nguy hiểm, do đó cần phải tiêm ngay kháng huyết thanh để dập dịch và ngay sau đó tiêm vacxin sống nhược độc để thanh toán bệnh. Cấm tuyệt đối xuất nhập heo ít nhất 60 ngày, sau đó phải đưa cả đàn đi giết mổ và thực hiện nghiêm khắc công tác vệ sinh phòng dịch.
GS.TS Lê Văn Năm
Naipet.com