Bệnh Cúm Chó Do H3N8 – Canine Influenza Virus

0

1. Nguyên nhân và dịch tễ
Chủng virus cúm chó
Các trường hợp nhiễm virus chúm chó có biểu hiện lâm sàng liên quan với việc truyền giữa các quần thể chó xảy ra ở Florida, Mỹ.Từ những năm 1999, chủng virus cúm ngựa H3N8 đã lưu hành trên ngựa, qua đột biến gen-biến đổi xảy ra ở protein HA và khi đó giống chó Greyhound ở Mỹ trở nên mẫn cảm. Phân lập virus được thực hiện đầu tiên trên chó bị nhiễm dịch hô hấp ở Florida vào năm 2004, và việc phân lập tương đồng này cũng được tìm thấy ở giống chó Greyhound và các giống chó khác ở bang này hay những bang khác sau đó. Việc lây lan này đường như không thường xuyên và được xem như có liên quan đến việc di chuyển chó bị nhiễm bệnh vào trong quần thể chó nhạy cảm với bệnh.
Phân lập virus H3N8 từ các ổ dịch Florida đã được xác định là thích nghi trên ký chủ chó (CIV), nó dễ dàng nhân rộng ở chó và đã được chứng minh là đã lây lan một cách không thường xuyên tại Mỹ. Dòng chó này có toàn bộ gen của virus cúm ngựa, gen mã hóa HA đã có sự thay đổi 5 acid amin trong protein đó. Kiểm tra tuần tự chó được lấy mẫu phân lập cho thấy có sự biến đổi gen nhỏ với xu hướng tiếp tục đột biến điển hình của virus cúm. Sự chỉnh sửa của virus H3N8 này dễ dàng sao chép và lây lan giữa những cá thể chó với nhau nhưng sẽ không lây sang ngựa. Tương tự như vậy, cúm chó sẽ không gây bệnh trên những loài cầm thuần hóa như gà, gà tây, vịt.

cum-cho-do-h3n8-1
Chủng virus cúm ngựa
Tài liệu hồi cứu di truyền ở Anh và Úc từ năm 2002 đến 2007, nghiên cứu phát hiện kháng thể của những con chó bị nhiễm với chủng cúm ngựa H3N8 là do tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với ngựa. Những cá thể chó này bị nhiễm virus cúm ngựa và lây lan trên chó một cách hạn chế chu không phải là một thích nghi đột biến trên chó. Lây lan theo chiều ngang trên chó đối với virus này thì chưa được chứng minh. Trong một nghiên cứu thực nghiệm thì chó được COHOUSED chung với ngựa bị nhiễm H3N8 cô lập thì chó bị nhiễm. Tuy nhiên, mặc dù virus được tìm thấy trong mũi chó bị ảnh hưởng, nhưng việc truyền ngang thì không được xác nhận. Tương tự như vậy việc tìm kiếm đã được thực hiện trong ổ dịch tự nhiên mà chó bị nhiễm trực tiếp hay vùng lân cận của ngựa bị nhiễm cúm. Tuy nhiên, chó trong nghiên cứu này thì không bị nhiễm nếu như chúng chỉ tiếp xúc với yếu tố duy nhất là ngựa bị nhiễm bệnh. Hơn nữa chó bị nhiễm bệnh từ các nghiên cứu được vận chuyển và cho nhốt chung với những con chó khác trong các khu đô thị, và sự lan rộng của chó đối với bệnh này thì không được tìm thấy. Lan truyền virus cúm từ ngựa sang chó làm tang mối quan tâm đối với dịch nhiễm trùng hô hấp trong tương lai trên chó khi tiếp xúc với ngựa hoặc sự chuyển thể của virus ngựa để gây mẫn cảm trên chó.

2. Sinh bệnh học
Tiêm gây bệnh lấy nguồn từ những chó nhiễm virus cúm thích nghi trên chó lên trở lại con ngựa thì thấy con ngựa có biểu hiện cúm nhẹ, con chuột làm thí nghiệm thì thì thấy bệnh hô hấp tiến triển viêm nặng ở khí quản, khi phân lập tiêm trên chó thì có biểu hiện sốt (trên 39 độ C) và trong hai ngày không thấy dấu hiệu bệnh đường hô hấp. Trong các nghiên cứu khác thì người ta tiêm liều gây nhiễm trê một chú cho con khoảng 15 tuần tuổi có kháng thể âm tính với virus này thì thấy có biểu hiện bệnh đường hô hấp và bệnh tích tổn thương phổi (Hình 23-2) với việc chứng minh được có sự xuất hiện của sự chuyển đổi của virus trong huyết thanh. Những tổn thương này cũng được tìm thấy trong những nghiên cứu sâu hơn ở chó trưởng thành bị nhiễm virus trong đường hô hấp.Mặc dù trong thí nghiệm gây nhiễm trên chó , viêm đường hô hấp và hạch bạch huyết thì nổi bậc, viêm phổi thì không phổ biến. Virus nhân lên và phát tán mạnh nhất trong thời kỳ ủ bệnh (2-4 ngày) và giảm nhanh số lượng về sau (7-10 ngày). Cường độ phát tán cúm chó cao hơn và thời gian ngắn hơn so với các loại cúm khác trong quan sát cho việc lây nhiễm cúm của các loài khác. Tuy nhiên ngay cả lúc chó chưa có dấu hiệu lâm sang vẫn bài thải virus, mặc dù thấp hơn nhiều so với việc bài thải virus ở chó bị nhiễm đã có dấu hiệu lâm sàng.

3. Dấu hiệu lâm sàng
cum-cho-do-h3n8-1
Viêm nhiễm cận lâm sàng có thể được ghi lại ở sự biến đổi huyết thanh mà chó không có biểu hiện của bệnh. Đối với những chó nhạy cảm thì mức độ nhiễm trùng có thể nghiêm trọng hơn nới các nguyên nhân bệnh truyền nhiễm hô hấp khác trên chó (xem chương 6). Những chó chưa tiếp xúc với mầm bệnh lần nào khi vào môi trường có mầm bệnh thì sẽ dễ dàng nhiễm bệnh hơn. Dấu hiệu lâm sàng đầu tiên chó bị nhiễm là sốt, thở nhanh, chảy nước mũi và ho (10-14 ngày)
Khi nhiễm CIV lan rộng và việc tiêm phòng đã được thực hiện thì mức độ nhiễm và nghiêm trọng của bệnh cũng đã giảm ở những chó sống trong môi trường không được tốt chẳng hạn như chó nuôi trong củi.
Biểu hiện hô hấp nặng và dai dẳng nhất là gắn liền với viêm phổi phát triển, có thể được xác nhận bởi chụp X-quang ngực. Với chó bị viêm phổi thì thông số huyết học như bạch cầu sẽ tang. Hầu hết chó có thể phục hồi nhưng một số chết. Những con chết có liên quan đến phổi, xoang trung thất , xuất huyết màng phổi khi khám tử. Nhiễm trùng chó săn nuôi trong cũi có biến chứng đường hô hấp là nghiêm trọng nhất bao gồm viêm phổi, có thể liên quan đến nhiễm trùng đồng thời với liên cầu khuẩn nhóm C (xem chương 33) và các vi khuẩn khác. Có sự thay đổi mô học bao gồm viêm khí quản, viêm cuống phổi và viêm phế quản phổi và mủ. Sau những trận dịch, những chó chưa từng có lịch sử bị bệnh đường hô hấp thì có lượng kháng thể chống lại virus này cao hơn. Sự viêm nhiễm của bệnh được biểu hiện nhanh chóng với những dấu hiệu cận lâm sàng trên nhiều chó ở những trại chó, nơi chó tập trung, và kể cả những chó nuôi riêng lẻ.

4. Chẩn đoán

cum-cho-do-h3n8-2
Dấu hiệu nhiễm CIV tương tự như những bệnh truyền nhiễm đường hô hấp khác trên chó (xem chương 6). Kiểm tra cụ thể thì không phải lúc nào cũng có biểu hiện lâm sàng. Như vậy để hỗ trợ trong các biện pháp kiểm soát được dịch thì phải xác định được nguyên nhân gây bệnh một cách chính xác. Một loạt các xét nghiệm có thể được làm để xác định đó là kiểm tra hàm lượng kháng thể trong huyết thanh (phương pháp này hiện nay đáng tin cậy nhất). Đối với mẫu từ những cá thể có biểu hiện cấp tính thì nên thực hiện trong vòng 7 ngày đầu tiên của bệnh và kiểm tra lại một lần nữa sau 14 ngày sau đó. Sự thay đổi hiệu giá kháng thể gấp khoảng 4 lần là dấu hiệu biểu thị sự nhiễm CIV đang diễn ra. Việc xác định hiệu giá kháng thể là dương tính hay không thấy không thấy được sự thay đổi hiệu giá thì chỉ khẳng định được chó đã từng tiếp xúc với mầm bệnh thôi. Hiệu giá kháng thể đối với CIV có thể được đo lường bằng xét nghiệm HI hay phản ứng trung hòa. Phương pháp thứ hai là tìm ra virus, phân lập từ dịch mũi là tốt nhất hoặc dịch hầu họng (hiệu quả thấp hơn) trong 4 ngày đầu của quá trình nhiễm. Mặc dù việc rửa khí quản hoặc phổi thì có lẽ thu được virus nhiều hơn nhưng có thể gây nguy hiểm cho những con có dấu hiệu lâm sàng. Virus có thể được nuôi cấy trong môi trường tế bào MDCK hay tế bào phôi trứng hoặc kết hợp cả hai phương pháp. Dùng kháng huyết thanh và phương pháp PCR có thể được sử dụng để xác định H3N8. PCR cũng có thể được sử dụng trực tiếp từ các mẫu lâm sàng trên bệnh phẩm mũi. Tuy nhiên, cũng như sự phân lập virus, thường thì kết quả cho dương tính trong 4 ngày đầu phân lập. Sử dụng miễn dịch nhuộm hoặc lai tại chỗ, virus có thể được phát hiện khắp đường hô hấp trong viêm nhiễm. Mô phổi nên được nuôi cấy, PCR, hoặc đánh giá bệnh lý từ những chó đã chết.
Dấu hiệu lâm sàng của những sự viêm nhiễm thường là nguyên nhân bởi nhóm liên cầu khuẩn nhóm C (streptococcus equi subsp.zooepidemicus). Mà nó cũng có thể là nguyên nhân gây ra sự bùng phát cấp tính, bệnh đường hô hấp thường gây tử vong cấp tính ở nhiều cá thể chó bao gồm chó nuôi lồng (xem chương 33).

5. Điều trị
Điều trị với kháng khuẩn phổ rộng có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh do nhiễm khuẩn thứ phát và viêm phổi biến chứng. Tuy nhiên điều này trong thực tế không đưa ra được ý nghĩa cho việc kiểm soát việc kéo dài thời gian và sẽ không rút ngắn được diễn tiến của bệnh ở động vật không có dấu hiệu nhiễm trùng thứ phát. Sử dụng thuốc virus cúm đặc biệt, chẳng hạn như oseltamivir, thì không được khuyến cáo bởi vì tính hiệu quả của nó chưa được nghiên cứu (xem công thức hóa học thuốc trong phụ lục). Những động vật bị ảnh hưởng nghiêm trọng thường được khuyến cáo đưa điu nhập viện và đòi hỏi cách ly và điều trị triệu chứng với dịch tiêm để duy trì nước. Phục hồi thường sau 2-3 tuần, mặc dù nó có thể dài hơn ở chó trong viêm phổi (xem chương 6 cho biết thông tin cụ thể cho việc điều trị nhiễm trùng hô hấp do virus).

6. Phòng chống
Trong nghiên cứu thực nghiệm, vaccine tái tổ hợp đã làm tăng nồng độ kháng thể virus trong huyết thanh. Vaccine bảo hộ này có bán trên thị trường cho chó và ngựa. Vaccine bất hoạt virus cúm ngựa thì được đánh giá trước khi vaccine cúm chó sẵn sàng để đưa vào sử dụng nhưng không có hiệu quả bảo vệ. Theo cách nói thương mại thì vaccine CIV là vaccine bất hoạt và dung để tiêm dưới da, nó giúp ích cho việc bảo vệ chó non sau khi tiêm nhắc lần 2 khoảng 13 ngày. Mức độ nghiêm trọng của triệu chứng lâm sàng, tổn thương bệnh lý và lượng virus phát tán thấp hơn ở những chó con được chích vaccine. Hiệu giá kháng thể trong phản ứng HI tang hơn đáng kể sau khi tiêm chủng vaccine trên chó non. Vaccine được chia làm hai liều, mỗi liều 1 ml, cách nhau 2-4 tuần.Chích vaccine trên chó được khuyến cáo trên những chó có nguy cơ tiếp xúc với cúm chó hay sự viêm nhiễm đường hô hấp khác (thấy trong chương 6 và 100). Những chó trong một nhóm lớn có thể là các trại động vật hoặc trong những nơi có mật độ nhiễm bệnh cao thì khuyến cáo tiêm vaccine. Chó tiếp xúc với ngựa cũng có thể được chủng ngừa. Tuy nhiên việc chích vaccine bảo vệ chó chống lại virus cúm từ ngựa thí đòi hỏi phải nghiên cứu thêm. Những cá thể nuôi trong hộ gia đình riêng lẻ thì ít có khả năng nhiễm cúm chó. Chó con tốt nhất là khoảng 6 tuần tuổi thì nên cho tiêm mũi đầu tiên. Việc tiêm nhắc lại hang năm là được khuyến khích. Vì mức độvà thời gian phát tán của virus cúm chó bị nhiễm bệnh hạn chế, sự lây lan địa lý không thường xuyên. Thực hiện chương trình tiêm chủng cho chó có thể giúp kiểm soát sự lan rộng của virus này. Để biết them thông tin cho việc tiêm chủng bệnh này, xem chương 6 về bệnh truyền nhiễm trên đường hô hấp trên chó. Biện pháp phòng ngừa cần được thực hiện để ngăn ngừa việc nhiễm chéo virus cúm. Xem thông tin liên kết trong bảng 23-2 cho các kiến nghị trong việc kiểm soát dịch cúm. Virus cúm lây truyền từ ngựa sang chó có thể tạo do chó ăn thịt ngựa sống, điều này phổ biến ở một số nhóm chó. Trong báo cáo của Anh, những chó săn cũng có khi tiếp xúc gần gũi với ngựa.
7. Tầm quan trọng trong sức khỏe cộng đồng
Mặc dù cúm người đôi khi có lây nhiễm cho chó và mèo (xem các cuộc thảo luận trước đó của cúm người), không có bằng chứng rằng H3N8 có thể lây lan từ chó sang người. Tuy nhiên, khi người bị suy giảm miễn dịch thì nên tránh tiếp xúc trực tiếp với động vật có bệnh đường hô hấp (xem chương 99). Bác sỹ thú y phải báo cáo dịch của động vật trên đường hô hấp vì có thể xảy ra sự biến đổi về mặc di truyền để thay đổi mối quan hệ với các loài mới trong việc lây lan tiến theo. Không có bằng chứng cho thấy CIV lây nhiễm động vật khác như mèo. Các biện pháp điều trị và phòng ngừa nên được sử dụng trong quản lý chó bệnh để giảm thiểu sự lây lan của nhiễm trùng.

Nếu copy bài, xin để lại một link sống về trang này. Xin cảm ơn!

Facebook Comments
Share.

Chat
1