Những Nguyên Nhân Làm Mất Tác Dụng Của Vaccin

0

 Khi một con vật bị mắc bệnh mà chúng đã được chủng ngừa, thường được gọi là sự thất bại của vắc-xin. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, sự thất bại không đến từ vắc xin mà là do phản ứng miễn dịch đối với vắc xin chưa đủ. Dưới đây là một số lý do chính gây bệnh ở con vật đã được tiêm chủng.

Kháng thể từ mẹ

Nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của vắc-xin là mức độ can thiệp của kháng thể từ mẹ. Mèo mẹ truyền các kháng thể để bảo vệ mèo con. Những kháng thể này được chuyển từ mèo mẹ thông qua nhau thai và sữa non – dòng sữa đầu tiên mèo con nhận được. Kháng thể là những phân tử protein nhỏ ngăn ngừa bệnh, được tạo ra bởi một số tế bào, gọi là “tế bào B”. Các phân tử protein này tạo ra các phản ứng đối với các phân tử bên ngoài như vi khuẩn hoặc vi-rút. Những kháng thể này liên kết với một số phân tử protein chắc chắn (kháng nguyên) trên các phân tử bên ngoài như vi khuẩn, giúp vô hiệu hóa chúng.

Độ tuổi mèo con có thể được chủng ngừa hiệu quả tỷ lệ thuận với số lượng kháng thể bảo vệ mà chúng nhận được từ mẹ. Mức độ kháng thể từ mẹ có trong mạch máu của mèo con cao sẽ ngăn chặn hiệu quả của vắc-xin. Khi mức độ kháng thể này giảm xuống một mức đủ thấp, khả năng miễn dịch (phòng ngừa bệnh) có thể được tạo ra thông qua tiêm chủng.

Các kháng thể từ mẹ thường lưu thông trong máu của động vật sơ sinh trong một vài tuần. Khoảng thời gian từ vài ngày đến vài tuần, khi kháng thể từ mẹ quá thấp để bảo vệ mèo con chống lại bệnh, nhưng quá cao để cho phép một vắc-xin hoạt động, được gọi là “giai đoạn nhạy cảm”. Đây là thời điểm mà dù đã được tiêm phòng, mèo con vẫn có thể bị nhiễm bệnh. Giai đoạn nhạy cảm có thể rất khác nhau. Độ dài và thời gian của giai đoạn này là khác nhau trong mỗi lứa và thậm chí giữa các cá thể trong một lứa.

Một số loại vắc-xin có thể kích thích hệ thống miễn dịch của động vật sơ sinh hoạt động ngay cả khi kháng thể từ mẹ vẫn còn tồn tại. Một loại trong số đó là “vắc-xin nồng độ cao, đoạn thấp”. Vắc-xin này đã thay đổi vắc-xin hiện tại, nó chứa một lượng lớn hơn các phân tử virus (nồng độ cao) nhưng ít bị suy giảm (đoạn thấp) hơn so với vắc-xin ‘trung bình’. Một loại khác, vắc-xin tái tổ hợp được làm từ các phần gen của virus hoặc vi khuẩn. Những gen này sẽ mã hóa các kháng nguyên để tạo ra các kháng thể tốt nhất và kết hợp với một vi-rút không gây bệnh, vậy chúng có thể xâm nhập vào các tế bào của cơ thể. Cả hai loại vắc-xin này đều có thể kích hoạt hệ thống miễn dịch ở động vật nhỏ tuổi, trong khi kháng thể từ mẹ sẽ ngăn cản sự tiếp nhận một loại vắc xin ‘trung bình’. Khi vắc-xin được cải thiện, chúng ta hy vọng sẽ có thể bảo vệ chó và mèo con tốt hơn trong suốt cuộc sống đầu đời của chúng.

nhung-nguyen-nhan-lam-mat-tac-dung-cua-vac-xin-400x299

 

Khoảng thời gian chưa đủ giữa tiêm phòng và phơi nhiễm dẫn đến việc thất bại

Vắc-xin không bảo vệ động vật phòng ngừa bệnh ngay lập tức. Nó cần vài ngày đến một tuần hoặc hơn nữa cho cơ thể của chúng phản ứng với vắc-xin. Đối với một số vắc-xin, mức độ miễn dịch thích hợp thường chỉ đạt được sau 2-3 tuần mũi tiêm thứ 2 trong loạt này. Một con vật nhỏ dễ bị nhiễm bệnh nếu nó tiếp xúc với bệnh trước khi vắc-xin có thời gian để kích thích khả năng miễn dịch của cơ thể. Mèo con được tiêm chủng ngừa bệnh giảm bạch cầu và sau đó tiếp xúc với vi-rút, nó có thể phát triển bệnh vài ngày sau. Cũng giống như vậy, một vắc-xin sẽ không cung cấp sự bảo vệ đối với mèo con nếu chúng phơi nhiễm với bệnh trước khi tiêm chủng.

Chúng ta thấy rằng khoảng thời gian quá ngắn giữa tiêm phòng và phơi nhiễm với bệnh có thể dẫn đến sự phát triển bệnh trong con vật. Trong một vài trường hợp, điều này cũng đúng nếu khoảng thời gian giữa tiêm chủng và tiếp xúc với bệnh quá dài. Một số chủng ngừa có thể bảo vệ động vật suốt cuộc đời. Một số khác, chẳng hạn như vắc-xin phòng bệnh bạch cầu ở mèo, chỉ có thể bảo vệ mèo trong một khoảng thời gian ngắn (thời gian miễn dịch ngắn). Thời gian bảo vệ từ vắc-xin thì khác nhau tùy thuộc vào từng loại bệnh, loại vắc-xin, độ tuổi tiêm chủng, và hệ thống miễn dịch của từng cá thể.

Nồng độ kháng thể: Chúng ta có thể cố gắng để xác định xem một người hoặc một con vật có được bảo vệ phòng ngừa bệnh bằng phương pháp đo lượng kháng thể ở trong máu. Kết quả này thường được diễn tả như một “nồng độ”. Xét nghiệm này được thực hiện bằng cách pha loãng một lượng máu nhất định, sau đó đo xem các lượng kháng thể cần thiết để tạo ra phản ứng ở mức độ pha loãng nào. Ví dụ, nồng độ (1:8) có nghĩa là máu có thể được pha loãng theo tỷ lệ một phần máu và bảy phần nước muối và vẫn có thể tạo ra phản ứng tích cực trong xét nghiệm. Ở mức nồng độ cao hơn (1:16), sẽ tồn tại nhiều kháng thể hơn thế nữa.

Chuyện trở nên phức tạp khi chúng ta cố gắng để phân tích các nồng độ. Nồng độ bảo vệ đối với bệnh bạch cầu ở mèo là 1:100, tuy nhiên, đối với chó là 1:20. Bạn không thể so sánh nồng độ giữa các bệnh khác nhau. Ngoài ra, nồng độ cũng chỉ là phương pháp đo lường một phần hệ thống miễn dịch – mức độ kháng thể. Nó không kiểm tra được phần còn lại của hệ thống miễn dịch, thứ đóng vai trò rất lớn trong việc phòng ngừa bệnh.

Một số bác sỹ thú y gợi ý rằng chúng ta nên đo nồng độ kháng thể trước khi tiêm chủng lại cho một con vật. Nếu nó có nồng độ kháng thể cao, vắc-xin sẽ không cần thiết. Tại thời điểm này, nồng độ kháng thể bảo vệ với nhiều bệnh sẽ không được nhận biết. Đối với một số bệnh, mức độ kháng thể sẽ không đáng giá chính xác tình trạng của hệ miễn dịch bởi vì các bộ phận khác của hệ miễn dịch quan trọng hơn đối với việc chiến đấu với các bệnh cụ thể. Một vấn đề khác đối với nồng độ đó là nó chỉ cho chúng ta thấy tình trạng của con vật tại thời điểm đó. Nó không thể chỉ ra tình trạng của con vật trong 6 tháng tiếp theo. Vì vậy, chúng ta nên thực hiện xét nghiệm bao lâu một lần? Cuối cùng, luôn luôn có khả năng xảy ra lỗi ở phòng thí nghiệm. Kết quả xét nghiệm có thể đưa ra một khuyến nghị sai lầm rằng con vật có nồng độ kháng thể bảo vệ cao, trong khi nó thực sự không có.

Các chủng khác nhau của vi khuẩn hoặc vi-rút

Vắc-xin chỉ chứa các chủng cụ thể của vi-rút hoặc vi khuẩn gây bệnh. Một vắc-xin được tạo ra từ một chủng có thể không bảo vệ đầy đủ để chống lại những chủng khác. Điều này đúng với vi-rút calicivirus ở mèo.

Thiệt hại đối với vắc-xin

Nếu không được xử lý đúng cách, một vắc-xin thay đổi có thể bị vô hiệu hóa. Trường hợp này thường ít xuất hiện, nhưng có thể xảy ra nếu vắc-xin tiếp xúc với tia cực tím, hoặc nếu khoảng thời gian từ khi nó được tái tạo đến khi nó được sử dụng quá dài, hoặc nếu nó không được bảo quản ở nhiệt độ thích hợp. Các nhà sản xuất nhận ra một số hạt vắc-xin có thể giảm thông qua xử lý, và đã cho phép điều này khi quyết định bao nhiêu hạt vắc-xin nên được bao gồm trong mỗi vắc-xin.

Quản lý không đúng cách

Vắc-xin được phát triển để được tiêm bởi một đường nhất định, hoặc đường mũi (vào lỗ mũi), tiêm dưới da, hoặc tiêm bắp (vào bắp thịt). Nếu một loại vắc-xin được quản lý bởi một con đường khác với con đường mà nó được phát triển, nó có lẽ sẽ không hiệu quả và có thể gây ra thiệt hại đáng kể.

Toàn bộ liều thuốc chủng ngừa nên được tiêm cùng một lúc. Vắc xin không được phát triển để cung cấp các liều khác nhau đối với những con vật có kích thước khác nhau, ngoại trừ trong một số trường hợp, được khuyến cáo rằng liều vắc-xin mũi cho mèo con được giảm.

Không tuân thủ lịch tiêm chủng

Can thiệp vắc-xin: Nếu thời gian giữa các liều vắc xin quá ngắn, có thể xảy ra sự can thiệp của vắc xin. Có ý kiến ​​cho rằng nếu có nhiều hơn một loại vắc-xin được đưa ra, chúng nên được tiêm cùng một lúc, chứ không phải cách nhau vài ngày.

 Nếu copy bài, xin để lại một link sống về trang này. Xin cảm ơn!

Facebook Comments
Share.

Chat
1